Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 44
Chủ giảng:
Lão pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt:
Huệ Trang và Đức Phong
Tập 87
“Thắng giả, thắng quá dư học,
siêu ư cửu thập lục chủng ngoại đạo
chi thượng”
(Thắng là vượt hơn những kẻ học khác,
vượt lên trên cả chín mươi sáu thứ ngoại
đạo). Chữ Đại có ba ý nghĩa là Đại,
Đa, Thắng, trong phần trước đã học
[Đại và Đa]. Hôm nay, [chúng ta] xem từ chữ Thắng.
“Thắng quá dư học”
(vượt hơn những kẻ học khác), “thắng” (勝) là thù thắng, cũng có
nghĩa là vượt trội. Thuở ấy, tại Ấn
Độ, lúc Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, nổi tiếng nhất là chín
mươi sáu loại ngoại đạo. Ngoại đạo
trọn chẳng phải là những người tu đạo
ở ngoài Phật pháp, chẳng mang ý nghĩa ấy! Các
đồng học chúng ta nhất định phải biết:
Cầu pháp ngoài tâm đều gọi là ngoại đạo.
Nếu người học Phật chúng ta cũng cầu
pháp ngoài tâm thì cũng gọi là ngoại đạo, loại
ngoại đạo này gọi là “môn
lý ngoại” (門裡外), tức là ngoại đạo trong Phật môn, trên thực
tế, có chẳng ít người! Phật pháp được
gọi là “nội học”, “nội” (內) là gì? Nội là tự tánh, do vậy, hết
sức coi trọng trở về tự tánh. Vì sao? Chúng ta
đã học Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ
đại sư, tôi nhắc tới cuốn sách này mọi
người liền hiểu, sẽ hiểu rất rõ nội
và ngoại. Giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm”,
nếu hướng về tâm để cầu, đấy
là nội học, gọi là Phật pháp. Nếu trái ngược
phương hướng ấy, hướng ra ngoài để
cầu thì là ngoại đạo. Do vậy, có thể biết:
Chúng ta học Phật, ngoại đạo trong Phật môn
cũng chẳng ít, mấy ai chẳng phan duyên bên ngoài? Nhãn
Căn phan duyên Sắc Trần bên ngoài. Nhĩ Căn phan
duyên Thanh Trần bên ngoài. Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp đều ở bên ngoài, phàm kẻ học theo những
thứ ấy đều gọi là ngoại đạo. Do vậy,
biết: Ý nghĩa được bao hàm trong từ ngữ “ngoại đạo” vô cùng rộng,
mấy ai có thể hướng theo tâm tánh? Quả thật
chỉ có Đại Thừa Phật pháp! Tiểu Thừa vẫn
còn phan duyên bên ngoài; chỉ có Đại Thừa Phật
pháp khởi tâm động niệm quán chiếu tự tánh,
nên gọi là “nội học”.
Vì thế, kinh Phật, đặc biệt là kinh Đại
Thừa, được gọi là “nội điển”. Chúng ta hiểu rõ sự khác
biệt giữa nội và ngoại. Do vậy, [từ ngữ]
“ngoại đạo” chẳng phải là coi rẻ người
khác, chẳng phải là xem nhẹ, cũng chẳng có
nghĩa là hạ thấp, mà là tông chỉ, phương
hướng, mục tiêu tu học [của họ] khác với
pháp Đại Thừa. Mục tiêu, phương hướng,
và tông chỉ của pháp Đại Thừa đều là
minh tâm kiến tánh; bất luận pháp môn nào, Tông Môn, Giáo Hạ,
Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển giáo, Mật
giáo, mục tiêu cuối cùng đều là “minh tâm kiến
tánh, kiến tánh thành Phật”. Trong sự giáo dục của
đức Phật, đạt đến kiến tánh thì
người ấy được coi như đã tốt
nghiệp, [tức là] tốt nghiệp pháp Đại Thừa.
Tốt nghiệp là thành Phật.
Thuở ấy,
Thích Ca Mâu Ni Phật đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh dưới cội Bồ Đề,
điều ấy được gọi là “thành đạo”,
hoặc còn gọi là “thành Phật”. Tại Trung Quốc, mọi
người đều coi nhân vật đại biểu
[cho sự đại triệt đại ngộ] là Lục
Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền Tông
đời Đường. Thật ra, tại Trung Quốc,
người đại triệt đại ngộ trong Tông
Môn và Giáo Hạ rất nhiều. Từ Cao Tăng Truyện
và Cư Sĩ Truyện, quý vị có thể thấy: Bất
luận tại gia hay xuất gia đều đạt tới
cảnh giới ấy. Trong các buổi giảng, chúng tôi
cũng thường nhắc tới cảnh giới ấy,
vì chuyện này hết sức trọng yếu. Học Phật
rốt cuộc là học gì? Kinh giáo chẳng phải là trọng
yếu nhất, nhưng [những điều được
giảng trong kinh điển] là phương pháp trọng yếu
nhất, phải hiểu điều này. Kinh giáo đã là
phương pháp thì dụng ý ở chỗ nào? Dụng ý là
đức Phật giảng rõ ràng, minh bạch nội và ngoại,
quý vị sẽ giác ngộ. Sự giác ngộ ấy
được gọi là giải ngộ; “tín, giải” là giải
ngộ. Sau khi giải ngộ, quý vị có thể khởi hạnh,
sau đấy mới có thể chứng ngộ. Chứng ngộ
mới đáng kể, chứ giải ngộ chẳng
đáng kể đến! Nói theo cách bây giờ, giải ngộ
thuộc về Phật học, chứng ngộ là học
Phật. Bởi lẽ, quý vị chẳng tin, sẽ không thể
lý giải, làm sao tu hành? Tu hành là tu gì? Chúng ta bèn hiểu rõ
ràng, minh bạch dụng ý của kinh điển. Không có
kinh điển, chúng ta vĩnh viễn mê hoặc, chẳng
liễu giải chân tướng của vũ trụ và nhân
sinh, kinh điển giảng rõ chân tướng. Vũ trụ
do đâu mà có? Trong Phật pháp nói tới “pháp giới”, y báo
và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, kinh điển
thường nhắc tới những thứ này, chúng do
đâu mà có? Cớ sao có mười pháp giới? Khoa học
và triết học hiện thời đều nghiên cứu
vấn đề này, không chỉ là trong hiện tại, mà
xưa nay, trong ngoài nước, bao nhiêu người đang
tra xét, nghiên cứu, thăm dò. Ai hiểu rõ ràng, minh bạch?
Thích Ca Mâu Ni Phật hiểu rõ, thật sự hiểu rõ.
Các khoa học gia và triết học gia hiện thời thảo
luận vấn đề, nhưng chẳng thể giải
quyết vấn đề. Trong kinh Đại Thừa
đã có toàn bộ [giải đáp], cho thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật thật sự hiểu rõ.
Tại
Trung Quốc, cổ thánh tiên hiền, tổ tiên cũng hiểu
rõ. Hiểu rõ như thế nào? Một câu thôi, “buông xuống
liền hiểu rõ”, vì sao? Hiểu rõ là bản năng
(năng lực sẵn có) của chúng ta, mỗi cá nhân đều
hiểu rõ, chẳng có ngoại lệ. Vì vậy, đức
Phật thường nói: “Hết
thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”. Trong phần
trước, chúng tôi đã giảng ý nghĩa chữ Phật
rất cặn kẽ, dùng tới hai tiếng đồng hồ
để giới thiệu Thích Ca Mâu Ni Phật. Chữ “Phật” có nghĩa là giác ngộ,
chữ “thánh nhân” của Trung Quốc có nghĩa là hiểu
rõ, [danh xưng Phật và “thánh nhân”] có ý nghĩa tương
đồng, hiểu rõ là giác ngộ, giác ngộ là hiểu
rõ. Người Trung Quốc gọi người hiểu rõ
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh là thánh nhân, cổ
Ấn Độ gọi là Phật Đà. Đức Phật
dạy: Bản năng của chúng ta hoàn toàn đều là
thông đạt, hiểu rõ, chẳng có cao hay thấp; bởi
lẽ, hết thảy chúng sanh vốn là Phật. Nay vì sao
biến thành phàm phu? Đã mê rồi, mê mất tự tánh.
Kinh Hoa Nghiêm nói về bản năng của tự tánh rất
hay: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”, “hết thảy chúng sanh” bao gồm chúng ta
trong ấy, chúng ta chẳng phải là ngoại lệ, đều
có trí huệ, đức năng và tướng hảo giống
hệt Như Lai, chẳng sai biệt. Cuối cùng, đức
Thế Tôn nói một câu: “Nhưng
do vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể
chứng đắc”, quý vị thấy: Lật lá bài tẩy
của chúng ta lên, [sẽ thấy rõ] vì sao chúng ta chẳng thể
giống như Phật? Chúng ta có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, đó là mê. Vọng tưởng
là gì? Khởi tâm động niệm là vọng tưởng.
Từ vọng tưởng khởi phân biệt, từ phân
biệt khởi chấp trước, càng mê càng sâu. Trong giáo
pháp Đại Thừa, vọng tưởng thường
được gọi là Vô Minh phiền não, phân biệt là
Trần Sa phiền não, chấp trước là Kiến
Tư phiền não, [đó là] ba loại đại phiền
não. Chúng ta mê mất tự tánh, trọn chẳng phải là
thật sự mất đi, mà là mê mất. Khi nào quý vị
chẳng mê, nó sẽ hiện tiền, khởi tác dụng.
Do vậy, đức Phật chẳng dạy chúng ta điều
gì khác, mà dạy chúng ta hãy buông xuống, ba loại phiền
não ấy thảy đều buông xuống, quý vị sẽ
thành Phật, [bởi lẽ] quý vị vốn là Phật.
Phàm phu
thành Phật phải mất bao lâu? Nói theo Lý là trong một
niệm! Một niệm buông xuống, quý vị bèn thành Phật.
Thích Ca Mâu Ni Phật đã thị hiện cho chúng ta thấy,
nhất niệm! Tại Trung Quốc, Lục Tổ Huệ
Năng đại sư cũng thị hiện cho chúng ta thấy,
cũng là một niệm. Kinh điển thường nói tới
bậc thượng thượng căn, vượt trỗi
chín mươi sáu loại ngoại đạo. Quý vị phải
biết: Phật Thích Ca và Huệ Năng đại sư
biểu diễn, thị hiện, há chỉ vượt trỗi
chín mươi sáu loại ngoại đạo, mà là siêu việt
viên mãn! Điều cốt yếu là quý vị có thể
buông xuống. Chúng ta chẳng phải là hạng thượng
thượng căn, không có cách nào đốn xả, “trong một
niệm hoàn toàn buông xuống” chúng ta làm không được.
Trong giáo pháp Đại Thừa, chúng ta thấy chuyện này
rất nhiều, rất rõ ràng, rất minh bạch, mà
cũng có thể nói: “Chỗ
nào cũng là đạo”, nhưng làm không được,
thật vậy, chẳng giả! Đức Phật dạy
chúng ta: Chẳng thể đốn xả thì quý vị xả
từ từ. Nói tóm lại một câu, mỗi ngày đều
phải bỏ; chẳng bỏ, quý vị sẽ vĩnh viễn
chẳng có tiến bộ. Thưa chư vị, môn học
vấn này chẳng tiến ắt lùi. Quý vị không tiến
bộ, chắc chắn sẽ lùi bước; lùi bước
rất đáng sợ! Nay chúng ta được làm thân
người, nhưng trong lục đạo, dưới
chúng ta là A Tu La đạo, La Sát đạo, quỷ đạo,
súc sanh đạo, địa ngục đạo, quý vị
nói xem: Có thể lùi bước hay chăng? Vì thế, chẳng
tiến về phía trước sẽ chẳng được,
chẳng thể không tiến cao hơn! Nếu muốn tiến
lên cao hơn, bí quyết là buông xuống, buông xuống từ
chỗ nào? Trong mấy chục năm qua, tôi thường
khích lệ các đồng học: “Hãy buông tự tư tự lợi xuống, buông tiếng
tăm, lợi dưỡng xuống, buông tham luyến
ngũ dục, lục trần, buông tham, sân, si, mạn xuống”,
tôi nói mười sáu chữ. Tôi chẳng khoa trương mảy
may nào, mà thật thà kính khuyên các đồng học: Làm
được mười sáu chữ ấy, tự tư tự
lợi chẳng còn, tiếng tăm, lợi dưỡng chẳng
có. Ngũ dục lục trần cũng buông xuống, tham,
sân, si, mạn mỏng nhạt, có nhập Phật môn hay
không? Thưa quý vị, chưa nhập, tôi dẫn quý vị
đến cửa ngõ, chưa nhập môn. Quý vị phải
biết, phải hiểu rõ: Nhập môn thì nhất định
phải tuân thủ tiêu chuẩn của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tiêu chuẩn của tôi thấp hơn Ngài, dẫn quý vị
đến cửa ngõ. Tiêu chuẩn của Thích Ca Mâu Ni Phật
chẳng thể biến đổi: Phải buông tám
mươi tám phẩm Kiến Hoặc xuống, quý vị mới
có thể nhập môn. Tám mươi tám phẩm ấy thuộc
về chín địa vị trong tam giới.
Nhằm
thuận tiện dạy học, tám mươi tám phẩm
quá nhiều, quá rắc rối, đức Thế Tôn đã
quy nạp chúng thành năm loại lớn hòng dễ nói
hơn: Loại thứ nhất trong năm loại lớn
là Thân Kiến. Chúng ta luôn chấp trước thân này là ta,
thứ kiến chấp này rất đáng ghét. Quý vị chấp
trước có ta, khởi tâm động niệm, hết thảy
tạo tác đều nhằm phục vụ ta, trật rồi!
Đức Phật bảo: “Không có ta, thật sự không có
ta”, quý vị ngỡ là “có ta” sẽ hỏng bét. Một mê, hết thảy đều mê, mê đến
cùng cực. Vì vậy, đầu tiên phải hiểu thân chẳng
phải là ta, thân là gì? Thân là cái ta có, giống như quần
áo. Quần áo chẳng phải là ta, nó mặc trên thân ta, ta
có nó, phải hiểu rõ ràng quan niệm này. Ta mà còn phải
buông xuống, huống gì những thứ ta có! Hễ buông
xuống thứ này (chấp Ngã), năm thứ sau đều
[buông xuống] rất dễ dàng. Loại thứ hai là Biên
Kiến, nay chúng ta gọi Biên Kiến là đối lập.
Ta còn chẳng có, đối lập với ai?
Đương nhiên chẳng có đối lập, quý vị
còn có thành kiến nữa chăng? Thành kiến cũng không
có. Vì thế, nói thật ra, mấu chốt của tám
mươi tám phẩm Kiến Hoặc là Ta (Ngã).
Sau khi đã phá ngã, thật sự buông xuống,
biết vô ngã, giống như Thiền Tông Nhị Tổ Huệ
Khả đến gặp Đạt Ma tổ sư, cầu
Đạt Ma tổ sư an tâm cho Ngài. Ngài tìm đến tổ
Đạt Ma, tổ Đạt Ma nói: “Ông đến tìm ta
có chuyện gì?” “Tâm con bất an, cầu đại sư an
tâm cho con”. Đạt Ma tổ sư nói: “Ông lấy tâm ra, ta
sẽ an nó cho ông”. Một câu nói ấy nhắc nhở Ngài,
quay lại tìm, chẳng tìm được, tìm nửa ngày rồi
nói: “Con tìm tâm trọn chẳng thể được”.
Đạt Ma tổ sư nói: “Dữ
nhữ an tâm cánh”, [nghĩa là] ta đã an cái tâm cho ông ổn
thỏa rồi! Do một câu nói này, [Nhị Tổ] bèn đại
triệt đại ngộ. Quý vị thấy người
ta vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy
đều buông xuống, minh tâm kiến tánh, kiến tánh
thành Phật. Tổ Đạt Ma truyền y bát cho Huệ
Khả, đấy là vị Tổ đời thứ hai của
Thiền Tông. Đấy là bậc thượng thượng
căn, nhất thời đốn xả. Có thể đốn
xả bèn đốn ngộ, mảy may vòng vèo cũng chẳng
có. Mấu chốt là “có Ta”, tất cả hết thảy tội
ác, nghiệp chướng đều từ đấy sanh
ra, quý vị nói nó có đáng sợ lắm hay không? Nếu thật
sự có ta, thân thật sự là ta thì còn thông cảm
được, quý vị vì nó mà tạo những nghiệp
chướng ấy. Nó không có, căn bản là chẳng tồn
tại! Đức Phật nói những
lời ấy, kẻ bình phàm chúng ta rất khó tiếp nhận,
rất khó lý giải, nhưng hiện thời, quả thật
khoa học đã giúp đỡ Phật giáo rất lớn.
Hiện thời trong ngành khoa học tiên tiến nhất,
các nhà vật lý Lượng Tử Học đã phát điều
gì? Giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy, vô ngã,
về căn bản không có Ngã tồn tại. Nói tới nhục
thân này, họ biết nhục thân chẳng phải là ta, nhục
thân là huyễn tướng, chẳng thật, nhưng phải
bỏ thì mới được. Chẳng thể bỏ,
quý vị tạo nghiệp hằng ngày.
Trong Phật
pháp có chân ngã hay không? Thưa quý vị, có! Minh tâm kiến
tánh, chân ngã bèn hiện tiền. Quý vị thấy trong tự
tánh có bốn tịnh đức Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh, Ngã có nghĩa là gì? Ngã có nghĩa là chủ tể, tự
tại. Quý vị hãy nghĩ xem: Trên cái thân này có hai ý
nghĩa ấy hay không? Có chủ tể hay không? Nếu thật
sự có chủ tể, năm nào cũng là mười tám
thì sẽ tốt đẹp lắm! Vì sao con người có
già, bệnh, chết? Có thể làm chủ thì năm nào
cũng là mười tám. Dân gian Trung Quốc tán thán Bồ
Tát, “Bồ Tát, Bồ Tát, niên
niên thập bát” (Bồ Tát năm nào cũng mười
tám), chẳng già! Chúng ta có cách nào làm được hay
chăng? Nếu quý vị kiến tánh, quả thật chẳng
có mảy may vấn đề nào, đúng là như vậy.
Đạo lý này rất sâu, nếu giảng ra thì chẳng
phải là hai giờ, ngay cả hai mươi bốn giờ
vẫn giảng không xong, thật đấy, chẳng giả
chút nào! Do vậy, trong tự tánh có Ngã, có chủ tể, thật
sự tự tại, đắc đại tự tại,
trên thân chúng ta chẳng tìm được định
nghĩa này. Có chân lạc, có Thường, Thường là
vĩnh hằng không thay đổi, Lạc là vĩnh viễn
chẳng khổ, lìa khổ là Lạc, Tịnh là vĩnh viễn
chẳng nhiễm ô. Huệ Năng đại sư kiến
tánh đã báo cáo đơn giản, ngắn gọn với
hòa thượng Ngũ Tổ Nhẫn, câu đầu tiên là:
“Nào ngờ tự tánh, vốn tự
thanh tịnh”, quý vị thấy trong ấy có Tịnh, tức
là Tịnh trong bốn tịnh đức. Câu thứ hai là “nào ngờ tự tánh, vốn chẳng
sanh diệt”, đó là Thường, bất sanh, bất
diệt, đó chính là Thường. “Nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”, đó là Ngã. Cuối cùng là “có thể sanh vạn pháp”, vốn
tự trọn đủ, có thể sanh vạn pháp, đấy
là tự tại! Vì vậy, hễ kiến tánh sẽ đạt
được Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, chúng thật
sự có; nhưng nơi thân phàm phu hoàn toàn không có, hữu
danh vô thực, tìm bốn chữ ấy không được,
đều là giả. Chúng ta chớ nên không biết điều
này; sau đấy, mới biết chúng ta học Phật là
học gì? Mong đạt được gì? Phải biết
cách học ra sao? Đây là một điều rất trọng
yếu.
Chúng ta
đọc lời chú giải tiếp theo: “Tái giả, Phật Địa Luận lánh hữu tam
nghĩa” (Ngoài ra, Phật Ðịa Luận
còn nêu lên ba nghĩa khác). Cũng là nói về sự thù
thắng ấy, Phật Địa Luận nêu ra ba ý
nghĩa. Thứ nhất là “tối
cực lợi căn”, [tức là] căn tánh nhạy bén
đạt tới mức cao tột nhất, “Ba La Mật Đa chủng tánh”,
người Trung Quốc nói là “bậc thượng thượng
căn”, mang ý nghĩa ấy. Người thượng
thượng căn “nghe một, ngộ cả ngàn”, hễ
tiếp xúc bèn hiểu rõ, họ có cần học hay không?
Không cần, vì sao không cần? Bậc thượng thượng
căn là người kiến tánh, vì hết thảy các pháp
là tâm tưởng, thức biến, kinh Hoa Nghiêm nói là “duy tâm sở hiện”. Tâm ấy
là chân tâm, là tự tánh, là tự tánh sanh, tự tánh hiện,
duy thức biến. Quý vị hoàn toàn thông đạt, hiểu
rõ tánh thức thì sáu căn tiếp xúc cảnh giới sẽ
tự nhiên thông đạt, không cần học. Ngài A Nan kết
tập kinh tạng, có thật sự cần phải nghe
Thích Ca Mâu Ni Phật phức giảng hay chăng? Chẳng
phải! Ngài phức giảng như thế nào? Ngài đã kiến
tánh, chỉ cần quý vị nói Thích Ca Mâu Ni Phật đã
giảng một bộ kinh nào đó, Ngài bèn biết toàn bộ,
chẳng nghe cũng biết, chẳng học cũng biết.
Tánh là cùng một tánh, tướng là thiên sai vạn biệt,
nhưng tánh là một. Vì thế, học Phật giống
như tựa đề bộ kinh này rất hay, hoàn toàn viết
ra nhân quả của sự minh tâm kiến tánh. Nhân là gì?
Thanh tịnh, bình đẳng, giác. Bất luận tu học
pháp môn nào, tám vạn bốn ngàn pháp môn, Hiển giáo, Mật
giáo, Tông Môn, Giáo Hạ, tu gì? Tu thanh tịnh, tu bình đẳng,
tu giác. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, “pháp” là phương pháp, tu phương pháp thanh tịnh,
bình đẳng, giác, “môn” là
môn đạo (đường lối), môn kính (đường
nẻo), phương pháp tu hành, đường lối vô
lượng vô biên. Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện có
nói: “Pháp môn vô lượng thệ
nguyện học”, đúng là chẳng giả tí nào!
Thưa chư vị, trong kinh Bát Nhã, đức Phật
đã nói: “Pháp môn bình đẳng,
chẳng có cao thấp”, bất luận một môn nào! Vì
sao? Đều do tự tánh hiện, tâm sanh, tâm hiện,
đều do thức biến; vì vậy, chúng bình đẳng.
Nói cách khác, bất luận một môn nào, quý vị chỉ
tìm được năng sanh, năng hiện, năng biến
của nó, chẳng phải là quý vị thành Phật ư? Từ
hết thảy các pháp tướng, chúng ta thấy chúng là sở
sanh, sở hiện, sở biến, quý vị tìm được
cội nguồn của chúng, chúng do đâu mà có, tìm
được cái năng sanh, năng hiện, năng biến
rồi, năng biến là A Lại Da, năng sanh, năng hiện
là tự tánh, chẳng phải là đã kiến tánh ư?
Đó là nội học. Tìm bên ngoài sẽ vĩnh viễn chẳng
tìm được, đức Phật gọi kẻ tìm bên
ngoài là ngoại đạo, phương hướng sai lầm.
Hãy hướng vào trong mà tìm, tìm bên ngoài sẽ vĩnh viễn
chẳng tìm được. Vì thế, người hễ
quay đầu, căn tánh bèn nhạy bén, người Trung
Quốc nói đó là trí huệ thượng thượng, là
chủng tánh Ba La Mật Đa.
Thứ hai, “đắc Vô Học quả vị”.
Quả Vô Học là A La Hán, ở đây, kinh nói là “Đại A La Hán”, quả Vô
Học này chẳng phải là Tiểu Thừa A La Hán, mà là
Đại A La Hán. Đại A La Hán là ai? Thập Địa
Bồ Tát! Trong Đại Thừa, Thập Địa Bồ
Tát được gọi là Vô Học, trong Tiểu Thừa
A La Hán là Vô Học. Thập Địa Bồ Tát thù thắng
lắm!
Loại thứ ba: “Đắc tiểu quả
dĩ, xu đại Bồ Đề” (đã đắc
tiểu quả, tiến lên đại Bồ Đề)
cũng đúng! “Tiểu quả”
là Tiểu Thừa A La Hán hoặc Bích Chi Phật, chứng
đắc quả vị này, hồi Tiểu hướng
Đại, nên biến thành đại tỳ-kheo. Phật
Địa Luận giảng ba ý nghĩa ấy. “Dĩ thượng tam nghĩa, cố
danh viết Đại” (Do ba nghĩa
trên đây nên gọi là Ðại).
“Hựu Gia Tường sư vị
Đại hữu tam nghĩa” (Ngài
Gia Tường lại bảo: “Ðại có ba nghĩa”). Bản chú
giải kinh này của ngài Gia Tường là Vô
Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ, khi giải thích chữ
Đại, Ngài đã dùng ba ý nghĩa sau đây: “Nhất sanh đại giải,
nhị phá đại ác, tam chứng đại quả”
(Một là sanh sự
hiểu biết lớn lao, hai là phá ác lớn, ba là chứng
đại quả). “Sanh
đại giải” là trí huệ. “Phá đại ác” là buông đại ác xuống,
đại ác là gì? Tham, sân, si, mạn, triệt để
buông xuống. “Chứng đại
quả”, nói theo cách thông thường, đại quả
là Pháp Thân đại sĩ, vượt thoát mười pháp
giới; nói cách khác, vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước thảy đều buông xuống, đoạn hết.
“Do thượng khả kiến
đại tỳ-kheo giả nãi đức cao vọng trọng,
hồi Tiểu hướng Đại chi tỳ-kheo, nãi tỳ-kheo
chúng trung chi tôn túc” (Do những điều
trên, ta thấy đại tỳ-kheo là bậc tỳ-kheo
đức cao trọng vọng, từ Tiểu Thừa
hướng đến Ðại Thừa, là bậc tôn túc
trong các tỳ-kheo), người Trung Quốc gọi
các vị ấy là “trưởng
lão”. Kinh nói rõ, một vạn hai ngàn người tham gia
pháp hội này. “Dữ đại
tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu” (và các đại
tỳ-kheo một vạn hai người cùng nhóm họp),
nay những người đến tham gia pháp hội Vô
Lượng Thọ Kinh chẳng phải là người
thường, kinh Phật gọi họ là bậc đại
quyền thị hiện. “Đại”
là chư Phật Như Lai, Pháp Thân đại sĩ đến
giúp đỡ Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh, thị hiện
đủ mọi cách. Đấy là “một đức Phật xuất thế, ngàn đức
Phật ủng hộ”, đấy là nói về Đa (nhiều),
chẳng phải chỉ có một ngàn! Chư Phật, Pháp
Thân đại sĩ, có vị thị hiện làm học trò
Phật, xuất gia hay tại gia, có những vị thị
hiện làm hộ pháp của đức Phật. Còn có những
vị thị hiện làm nhân vật phản diện đến
chướng ngại Phật pháp, đến gây rối
Thích Ca Mâu Ni Phật, họ chẳng phải là phàm nhân.
Đề Bà Đạt Đa cũng là cổ Phật tái
lai, đến thị hiện, Lục Quần tỳ-kheo
cũng thế. Chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật
này, quý vị đọc năm mươi ba lần tham học
của Thiện Tài sẽ thấy có ý vị, bèn hiểu:
Đều là chư Phật Như Lai thị hiện đủ
mọi lẽ nhằm thành tựu một người tu
hành. Nếu người tu hành thật sự hiểu, phải
bao lâu mới thành Phật? Một đời! Đấy là
kẻ bình phàm, chẳng phải là bậc thượng
thượng căn. Bậc thượng thượng
căn thành Phật trong một niệm. Phàm nhân thành Phật,
chắc chắn có thể làm được trong một
đời. Quý vị thật sự có thể lý giải, thật
sự hạ quyết tâm buông xuống. Trước hết,
hãy bắt đầu từ tự tư tự lợi, từ
tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần, tham, sân, si, mạn, thực hiện từ những
điều này, không ngừng tiến lên. Tập khí phiền
não rất nặng, thật đấy, chẳng giả
đâu! Sức dụ dỗ, mê hoặc của ngoại
duyên quá lớn. Đấy đều là chân tướng sự
thật. Nếu chúng ta chẳng kiên trì, chẳng thể chịu
khổ, chẳng thể nhẫn nhục, sẽ chẳng có
một tí biện pháp nào. Làm sao để có thể giúp
đỡ chúng ta? Đọc kinh, nghe giáo là phương pháp
tốt nhất.
Cả
đời này, tôi học Phật năm mươi chín
năm, giảng kinh năm mươi hai năm, chẳng bị
thế tục cảm nhiễm, do đâu mà đắc lực?
Đắc lực do giảng kinh, và đọc kinh mỗi
ngày, mỗi ngày chẳng rời khỏi kinh giáo, chẳng
tách rời kinh giáo, chẳng lìa khỏi Phật, Bồ Tát.
Mỗi ngày giảng kinh có nhiều thính chúng như vậy,
thính chúng đều là Phật, Bồ Tát, đều là thiện
tri thức của tôi. Họ đến đốc thúc tôi,
mỗi ngày đều muốn nghe, nên tôi phải học mỗi
ngày. Tôi chẳng học, lấy gì để giảng cho họ
nghe? Họ đốc thúc tôi. Trong tâm mục của tôi, họ
chẳng phải là thính chúng, mà là giám học, đều là
thầy của tôi, thị hiện mọi lẽ. Học
trò là ai? Chính tôi là học trò. Giống như Thiện Tài
đồng tử, chính mình là học trò; trừ chính mình ra,
hết thảy đều là chư Phật, Bồ Tát, thị
hiện đủ mọi cách, thuận cảnh, nghịch cảnh,
thiện duyên, ác duyên, đến thành tựu, giúp đỡ
tôi. Vì thế, Thiện Tài thành Phật trong một đời.
Nếu tôi tự cho mình là đúng, tôi là thầy, là pháp
sư, các vị đều là học trò, là đồ chúng của
tôi, thưa quý vị, tôi không chỉ chẳng thể thành tựu,
sợ rằng còn phải đọa lạc. Vì sao? Có những
ý niệm ấy, chắc chắn sẽ nẩy sanh tham, sân,
si, mạn, tức ngạo mạn, chắc chắn tạo
tội nghiệp; một vạn hai ngàn người thị
hiện, năm mươi ba lần tham học của Thiện
Tài đồng tử chẳng phải là uổng công ư?
Có mấy ai hiểu được, nhìn ra, thấy
được đường nẻo này, thật sự
đúng lý, đúng pháp, y giáo tu hành.
Tiếp
đó nói: “Vạn nhị thiên
nhân câu” (một vạn hai ngàn người cùng nhóm họp),
tham gia pháp hội lần này là một vạn hai ngàn người,
“tiêu tỳ-kheo chi nhân số” (nêu
ra số lượng các tỳ-kheo). Chúng ta cần phải
biết điều này, vì sao? Tham gia pháp hội, ngoài các tỳ-kheo
còn có rất nhiều người, có thể thấy pháp hội
này thù thắng. “Hội Sớ
viết: Chư kinh đa tiêu thiên nhị bách ngũ thập
nhân, kim kinh dữ Pháp Hoa tiêu vạn nhị thiên nhân, cái thị
xuất thế bổn hoài, nhất đại thắng hội,
cố thập phương đại đức giai vân tập
hồ” (Bộ Hội Sớ viết: “Các kinh thường
nêu một ngàn hai trăm năm mươi người. Kinh
này và kinh Pháp Hoa lại nói một vạn hai ngàn người.
Ðó là do bổn hoài xuất thế, là pháp hội thù thắng
trong cả một đời, nên mười phương
đại đức đều như mây nhóm đến
đó chăng?”). Chữ “hồ”
(乎) là đánh dấu hỏi, là một nghi
vấn, nhằm nói rõ điều gì? Hội này chẳng phải
là pháp hội tầm thường, mà là một pháp hội
thù thắng khôn sánh. Đức Phật giảng kinh Pháp Hoa,
tỳ-kheo một vạn hai ngàn vị; giảng bộ kinh
này cũng là một vạn hai ngàn người, có nghĩa
là giáo nghĩa kinh này và kinh Pháp Hoa ngang nhau, bình đẳng.
Kinh Pháp Hoa là Nhất Thừa Viên giáo. Từ xưa, các tổ
sư phán giáo, phán định Đại Thừa, Tiểu
Thừa, ngoài Tiểu Thừa và Đại Thừa còn có Nhất
Thừa. Đại Thừa là Bồ Tát, Tiểu Thừa là
Thanh Văn, Nhất Thừa là Phật. Pháp hội này giảng
gì? Giảng pháp môn thành Phật, đó là Nhất Thừa. Nếu
tiêu chuẩn tối cao trong một pháp môn là giảng cách tu
thành Bồ Tát, đấy là Đại Thừa; nếu chỉ
giảng [phương pháp] thành A La Hán, thành Bích Chi Phật,
đó là Tiểu Thừa. Tổ sư đại đức
thường nói về kinh Pháp Hoa như sau: “Thành Phật Pháp Hoa, khai trí huệ Lăng Nghiêm”,
kinh Lăng Nghiêm khai trí huệ, kinh Pháp Hoa thành Phật, bộ
kinh này thì sao? Kinh này thành Phật! Kinh Hoa Nghiêm cũng là thành
Phật, kinh Hoa Nghiêm thành Phật như thế nào? Đến
cuối cùng mười đại nguyện vương của
Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Kinh
Pháp Hoa cũng không ngoại lệ, phàm là kinh Nhất Thừa
thành Phật đều dính líu đến kinh Vô Lượng
Thọ. Trong lời tựa cho bản hội tập, lão
cư sĩ Mai Quang Hy đã nói rất rõ ràng, rất minh bạch.
Vì thế, chuyện được ghi chép bởi câu này có ý
nghĩa biểu thị pháp rất sâu, chúng ta vừa nhìn liền
hiểu tầm trọng yếu của bộ kinh này. Thuở
trước, vào thời Đông Tấn, Huệ Viễn
đại sư lập Niệm Phật Đường tại
Lô Sơn, thuở ấy, Ngài đã căn cứ trên kinh Vô
Lượng Thọ. Chúng ta không biết Huệ Viễn
đại sư đã dựa theo bản dịch nào,
nhưng trong mục lục, chúng ta thấy có ghi bản dịch
của An Thế Cao, nên chúng ta có lý do để tin tưởng:
Huệ Viễn đại sư phải dùng bản dịch
của ngài An Thế Cao, đáng tiếc là bản ấy
đã thất truyền. Trong các vị đại sư
phiên dịch trải các đời, An Thế Cao và Cưu Ma
La Thập là hai vị đại sư phiên dịch
được người Trung Quốc thích đọc nhất.
Họ dịch theo lối dịch ý, chẳng phải là trực
dịch. Nay chúng ta thấy bản dịch của hai vị
đại đức ấy trong Đại Tạng Kinh
đều vô cùng hoan hỷ. Do Đông Tấn vẫn còn rất
gần với thời đại của ngài An Thế Cao,
chúng tôi có lý do để tin tưởng: Vào thuở ấy,
Viễn công đại sư phải có được bản
dịch ấy. “Thượng
thuyết thậm thị” (thuyết trên đây thật
đúng), tức là [cụ Hoàng Niệm Tổ nhận định]
sách Hội Sớ nói rất có lý. “Hội chúng chi thịnh, chánh biểu Thế Tôn thuyết
pháp chi thắng dã” (Đại chúng tham dự pháp hội
đông đảo, biểu thị đức Thế Tôn
thuyết pháp thù thắng), kinh Vô Lượng Thọ giảng
pháp thù thắng khôn sánh. “Hựu
Câu giả, cộng tập chi nghĩa” (lại nữa,
Câu có nghĩa là cùng nhóm họp lại). “Câu” (俱) là mọi người cùng nhau học tập,
cùng nhau đề xướng, cùng nhau hoằng
dương, cùng nhau phổ độ hết thảy đại
chúng, có ý nghĩa này.
Hai câu kế
tiếp đó: “Nhất thiết
đại thánh, thần thông dĩ đạt. Thượng
nhị cú, tán chư đại tỳ-kheo chi đức”
(Câu “hết thảy đại
thánh thần thông đã đạt” khen ngợi đức của
các đại tỳ-kheo). Đây là tán thán. Hai câu này là tổng
tán, đến phần sau, chúng ta sẽ thấy lời biệt
tán, tán thán rất nhiều. Tán thán phẩm đức của
các vị đại tỳ-kheo, trong ấy chứa đựng
ý nghĩa rất sâu, [những đức năng của các
vị đại tỳ-kheo] chính là đức năng vốn
sẵn đủ trong tự tánh của chúng ta. Quý vị thấy
những đức năng ấy trong tự tánh thảy
đều có, chỉ là hiện tại bị mê mất.
Đọc xong sẽ có ý niệm: Chúng ta phải tìm lại
Tánh Đức, quá tốt đẹp! Tìm như thế nào?
Buông tập khí phiền não xuống, Tánh Đức sẽ
trở lại. Chúng ta có thể buông xuống một phần,
Tánh Đức sẽ hiển lộ một phần. Có thể
buông xuống hai phần, Tánh Đức sẽ hiển lộ
hai phần. Không nhất định phải buông xuống
viên mãn, buông xuống viên mãn sẽ thành Phật, viên mãn hiện
tiền. Chỉ cần thật sự làm, quý vị sẽ
có lòng tin tràn trề, sẽ ngập tràn pháp hỷ. Trong Phật
môn thường nói là “phiền não nhẹ, trí huệ
tăng trưởng”. Phiền não mỗi ngày nhẹ dần,
trí huệ mỗi ngày tăng thêm. Phiền não mỗi năm
giảm dần, trí huệ mỗi năm tăng trưởng.
Phiền não mỗi tháng giảm nhẹ, trí huệ mỗi
tháng tăng trưởng. Tới lúc mỗi tháng phiền
não nhẹ dần, trí huệ tăng dần, quý vị sẽ
pháp hỷ sung mãn; mỗi ngày đều tăng trưởng,
gần như quý vị sẽ nhanh chóng thành Phật, cách Vô
Thượng Bồ Đề chẳng xa!
“Nhất thiết, nãi cai la sự
vật chi xưng” (“Nhất thiết” là tiếng để gọi chung tất cả
sự vật), tức là bao gồm tất cả hết
thảy. “Hựu nhất thiết,
phổ dã. Nhất thiết đại thánh, tán thán chi từ”
(“nhất thiết” còn có nghĩa là khắp cả. “Nhất
thiết đại thánh” là
lời khen ngợi). Trong Gia Tường Sớ có giải
thích: “Du tâm Không lý; ẩn, hiển nan trắc, cố xưng
thánh nhân” (Tâm dạo
nơi lý Không; ẩn, hiển khó lường, nên gọi là
thánh nhân”), ý nghĩa này dễ hiểu.
Thấy thánh nhân dụng tâm khác với chúng ta, tâm chúng ta trái
nghịch tâm họ. Tâm chúng ta chẳng Không, trong ấy có
quá nhiều thứ tạp nhạp. Tâm chúng ta trái nghịch
lý (lý là tự tánh). Tự tánh đúng là thứ gì cũng chẳng
có, nó là Không, là Lý Thể để vạn sự vạn
pháp nương vào. Vạn sự vạn pháp trong vũ trụ
do đâu mà có? Những đạo lý, năng sanh,
năng hiện, năng biến, Lý Thể là tự tánh,
mười pháp giới đều bao gồm trong ấy. Thức
biến, mười pháp giới là thức biến. Tự
tánh chẳng phải là vật chất, cũng chẳng phải
là tinh thần. Nó có thể hiện vật chất, mà
cũng có thể hiện tinh thần. Khi nó hiện, tức
là Hiển, Hiển là hiện. Khi chẳng hiện thì gọi
là Ẩn. Khi Huệ Năng đại sư khai ngộ
đã nói: “Nào ngờ tự tánh,
vốn tự trọn đủ”, đó là Ẩn, chẳng
hiện. Vốn tự trọn đủ, tuy cái gì cũng
chẳng phải là nó, nhưng nó có thể hiện bất cứ
điều gì. Câu cuối cùng là “có
thể sanh ra vạn pháp”, đó là Hiển. Tổ nói
năm câu thì câu thứ ba là Ẩn, câu cuối cùng là Hiển,
đều chẳng thể nghĩ bàn. Câu “chẳng thể
nghĩ bàn” này có ý nghĩa vô cùng sâu, quý vị chẳng cần
phải suy tưởng, chẳng cần phải thảo luận,
vì sao? Hễ suy tưởng thì toàn bộ đã trật rồi!
Quý vị thảo luận cũng sai luôn! Đừng suy
tưởng, đừng thảo luận, chân tướng
sẽ hiện tiền, quý vị thấy toàn bộ. Quý vị
tư duy nó thì toàn bộ vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước sẽ hiện tiền.
Cớ sao mê? Do vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước bèn mê. Mê thì chẳng thể giác ngộ,
mê chỉ có càng mê hơn, càng mê càng sâu! Đức Phật dạy
chúng ta, buông xuống là được, đừng quan tâm tới
nó, chỉ buông xuống. Buông chấp trước xuống
bèn thành A La Hán, chấp trước là Kiến Tư phiền
não. Buông phân biệt xuống, phân biệt là Trần Sa phiền
não, buông phân biệt xuống là Bồ Tát. Buông khởi tâm
động niệm xuống, quý vị bèn thành Phật,
trong hội Hoa Nghiêm những vị ấy được gọi
là Pháp Thân đại sĩ. Tu hành trong Phật pháp, ngàn lời,
vạn câu đều là một câu, đều khuyên quý vị
hãy buông xuống, phải giữ cho thân tâm thanh tịnh. Quan
trọng nhất là tâm, tâm thanh tịnh, thân sẽ thanh tịnh,
vì sao? Thân là một hiện tượng vật chất gần
gũi chúng ta nhất, là cảnh giới, là tướng cảnh
giới, cảnh chuyển theo tâm. Tâm là ý niệm, ý niệm
là Mạt Na Thức và thức thứ sáu, tức Ý Thức.
Thức thứ sáu (Ý Thức) phân biệt, thức thứ bảy
chấp trước. Chẳng phân biệt, chẳng chấp
trước, chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng
Tánh Trí, chuyển thức thứ sáu thành Diệu Quán Sát Trí.
Hai thứ này vừa chuyển, A Lại Da và năm thức
trước cũng chuyển theo. Tám thức chuyển có
trước sau, thức thứ sáu và thứ bảy chuyển
trước, chuyển biến nơi nhân. Năm thức
trước và thức thứ tám chuyển nơi quả.
Quý vị thấy cảnh chuyển theo tâm. Có thể chuyển
cảnh giới thì tu hành mới có công phu, mới thật sự
biết tu. Chẳng chuyển được cảnh giới,
quý vị tu uổng công. Nói “tu uổng công” thì vẫn là ca
ngợi quý vị, chứ về căn bản, quý vị chẳng
tu! Những sự lý, nhân duyên như vậy, nhất định
phải đọc nhiều kinh luận Đại Thừa
[mới hiểu được].
Đọc kinh cũng
có bí quyết mầu nhiệm, hễ hiểu sẽ có thụ
dụng, lại còn rất nhanh chóng. Chẳng hiểu, sẽ
khó khăn. Hiểu là gì? Thâm nhập một môn, huân tu dài
lâu, đắc tam-muội ngay trong môn ấy. Tam-muội là
Định, tâm thanh tịnh hiện tiền. Vì mỗi ngày
quý vị nghĩ đến nó, chẳng có hơi sức
đâu để nghĩ đến điều gì khác, toàn bộ
những thứ tạp nhạp trong thế gian đều
buông xuống, trong tâm chỉ giữ một thứ là Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Kinh, chỉ một thứ ấy.
Giữ lâu ngày, tập khí phiền não tự nhiên đoạn
hết. Đoạn phiền não, tam-muội hiện tiền,
sau một thời gian lâu dài, quý vị sẽ đại triệt
đại ngộ, khai ngộ kinh Vô Lượng Thọ. Một
ngộ, hết thảy ngộ; không chỉ đối với
hết thảy các pháp do đức Thế Tôn đã nói trong
bốn mươi chín năm, mà vô lượng đại
pháp do mười phương ba đời hết thảy
Như Lai đã giảng, quý vị đều thông suốt
toàn bộ. Vì sao? Chẳng lìa tự tánh. Quý vị đã tìm
được năng sanh, năng hiện, năng biến,
đối với sở sanh, sở hiện, sở biến,
không gì chẳng thông đạt, hiểu rõ toàn bộ. Tin tức
này tốt đẹp, rất khó gặp gỡ, chúng ta
đã gặp, phải tin tưởng. Hễ tin tưởng,
quý vị bèn có phước. Vì sao? Tin tưởng thì quý vị
sẽ thật sự muốn học, đúng như pháp tu
hành, nên thật sự đạt được lợi
ích. Nếu quý vị không tin, sẽ chẳng phát khởi ý
nguyện học tập; nói theo nhà Phật là “chẳng phát
tâm Bồ Đề”. Bởi lẽ, đối với tín,
giải, hành, chứng, chẳng thể lý giải thấu
triệt giáo huấn của Phật, Bồ Tát, lý giải
chính xác, quý vị tu tập bằng cách nào? Quý vị tu học
toàn là sai lầm, dẫu dụng công, dù nỗ lực, vẫn
chẳng đạt được hiệu quả, cuối
cùng mất lòng tin đối với Phật pháp! Nếu bị
mất lòng tin, nẩy sanh hoài nghi, lại hủy báng Phật
pháp, tạo nghiệp quá nặng, chẳng bằng không học.
Đồng tu học Phật, bất luận xuất gia
hay tại gia, chớ nên không biết điều này!
Thật
sự muốn học thì vun bồi cội rễ giáo dục
quan trọng hơn bất cứ điều gì khác. Quý vị
không có cội rễ, dẫu nỗ lực cũng uổng
công. Giống như trồng cây, thiếu rễ, quý vị
trồng cách nào nó cũng chẳng sống được!
Rễ quan trọng! Tại Trung Quốc, vào thời cổ,
người học Phật có bốn cội rễ; vì thế,
đời nào cũng đều có người chứng quả,
khai ngộ, đắc Định rất nhiều. Đắc
Định là đắc tâm thanh tịnh. Khai ngộ, chứng
quả, tâm bình đẳng, tâm chánh giác đều hiện
tiền, chánh giác là chứng quả. Đối với bốn
cội rễ ấy, phải biết Phật giáo Trung Quốc
kể từ giữa đời Đường trở
đi, không còn vun bồi cội rễ Tiểu Thừa.
Xưa kia, Tiểu Thừa có Thành Thật Tông và Câu Xá Tông. Từ
giữa đời Đường trở đi, tổ
sư đại đức đề xướng dùng Nho,
dùng Đạo thay thế Tiểu Thừa; vì thế, Nho,
Thích, Đạo biến thành một nhà. Ngày nay chúng ta phải
vun bồi căn cội, hãy hành theo giáo huấn của tổ
tiên, vì hơn một ngàn bảy trăm năm qua, người
thành tựu rất nhiều. Chúng ta dùng Đệ Tử Quy
của Nho gia, Thái Thượng Cảm Ứng Thiên của
Đạo gia, dùng Thập Thiện Nghiệp Đạo của
Phật pháp, đấy là ba cội rễ, người xuất
gia còn có một thứ nữa là Sa Di Luật Nghi, [do] bốn
căn cội, quý vị mới thành tựu thù thắng. Hiện
thời, chúng ta không thể thực hiện câu “du tâm Không lý” trong Gia Tường
Sớ, nhưng Pháp Thân Bồ Tát thật sự có thể
làm được câu ấy. Hiện thời, chúng ta có thể
“du tâm Di Đà” đã tuyệt
lắm rồi, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, trừ
A Di Đà Phật ra, thứ gì cũng đều không có. Cuộc
sống, công việc hằng ngày, đãi người, tiếp
vật hoàn toàn tuân thủ theo giáo huấn của ba cội
rễ, hoặc bốn cội rễ, sẽ là thánh nhân trong
thời hiện đại, đương nhiên Phật
pháp sẽ hưng vượng. Phật giáo hưng vượng
phải nhờ vào các đệ tử nghiêm túc nỗ lực
học tập, khiến cho đại chúng bình phàm trong xã hội
chẳng đến nỗi hiểu lầm [Phật giáo], tự
nhiên tôn trọng, ủng hộ quý vị, hướng theo
quý vị học tập.
“Hội Sớ viết: Sơ Quả
dĩ thượng, tất danh thánh giả. Dĩ cứu
đại A La Hán, cố danh Đại Thánh” (Sách Hội Sớ giảng: “Từ
Sơ Quả trở lên đều gọi là Thánh. Ðã cùng tột
quả Ðại A La Hán thì gọi là Ðại Thánh”). Sách Hội Sớ giảng theo lối
thông thường. Sơ Quả Tu Đà Hoàn là thánh
nhân, là vị thánh nhỏ nhoi, vì sao? Ngài có thể đoạn
hết tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới,
chứng quả Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa. Nếu
là Đại Thừa, nói theo kinh Hoa Nghiêm, người chứng
đắc địa vị Sơ Tín trong [các địa vị
thuộc] Thập Tín Bồ Tát là nhập môn. Vì vậy,
đối với chuyện nhập môn, tiêu chuẩn như
tôi đã nói vẫn chưa được. Tôi thưa cùng
quý vị, tiêu chuẩn như tôi đã nói chỉ đưa
đến cửa ngõ, hết sức gần gũi, cũng
có nghĩa là quý vị thật sự buông tự tư tự
lợi xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng
xuống, buông ngũ dục, lục trần xuống, buông
tham, sân, si, mạn xuống, quý vị sẽ ở trước
cửa ngõ. Muốn vào cửa, nhất định phải
đoạn sạch Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ
Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến. Đoạn hết
năm thứ kiến giải sai lầm ấy, quý vị sẽ
chứng đắc Tiểu Thừa Sơ Quả. Nếu học
Đại Thừa, sẽ là Sơ Tín vị Bồ Tát, là
thánh nhân, thật sự là thánh nhân. Tuy chưa thoát khỏi lục
đạo luân hồi, còn ở trong lục đạo,
nhưng chắc chắn chẳng đọa tam ác đạo.
Lại còn bảy lần sanh trong cõi trời hay trong nhân
gian, luôn tu học, tối đa là bảy lần, quý vị
chắc chắn chứng quả A La Hán. Trong Đại Thừa,
tái sanh bảy lần, chứng đắc Đệ Thất
Tín trong Thập Tín vị, bèn vượt thoát lục đạo.
Thất Tín, Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín thuộc vào tứ
thánh pháp giới, Thất Tín là Thanh Văn pháp giới, Bát
Tín là Duyên Giác, Cửu Tín là Bồ Tát, cao nhất là Phật,
lại vượt thoát mười pháp giới, vượt
thoát mười pháp giới là đại thánh. Những
địa vị ấy (địa vị thấp hơn
Sơ Trụ) đều chẳng thể coi là đại
thánh, chỉ được coi là thánh nhân. Vượt thoát
mười pháp giới, từ Sơ Trụ của Viên Giáo
trở lên, là Pháp Thân đại sĩ, trụ tại
nơi đâu? Trụ trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm của
chư Phật Như Lai. Trên thực tế, cõi Thật Báo
Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai là cõi Thật Báo
Trang Nghiêm của chính mình. Tới khi đó, quý vị mới
thật sự hiểu rõ: “Tự
tánh Như Lai, duy tâm Tịnh Độ”. Do vậy, Tây
Phương Cực Lạc thế giới là tự tâm hiện,
tự tánh biến, chẳng phải là bên ngoài. Đó là quê
nhà của quý vị, là nơi chốn quý vị vốn sẵn
có. Vì thế, trở về cõi Thật Báo của A Di Đà
Phật là quay về nhà, đâu có gì khó khăn!
Thật
sự học Phật, quý vị chẳng thể không nhận
biết Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng thể không liễu
giải Thích Ca Mâu Ni Phật. Quý vị học tập giống
như Ngài, có lẽ nào chẳng thành Phật trong một
đời! Đức Phật dạy chúng ta buông xuống,
Ngài thật sự buông xuống, thứ gì cũng đều
không có. Ngài sống cuộc đời đơn giản nhất,
ba y một bát, đó là tài sản của Ngài. Toàn bộ tài
sản là ba y một bát, đều mang theo thân. Thật vậy!
Nếu nói theo phía tục nhân chúng ta, cái gì trên thân quý vị
sẽ là của chính quý vị, chẳng ở trên thân sẽ
chẳng phải là của chính mình. Tối thiểu là có
quan niệm ấy! Trên thân quý vị có tiền, trong bóp có
bao nhiêu tiền, đó là của chính mình, còn tiền cất
trong ngân hàng chẳng phải là của quý vị. Căn nhà
quý vị đang ở trong ấy, sống trong ấy, nó là
của quý vị. Sau khi quý vị bước ra khỏi cửa,
căn nhà ấy chẳng phải là của quý vị. Trong
cuộc sống hằng ngày, quý vị có thể quán như
thế, sẽ gần gũi Phật pháp, tham, sân, si dần
dần bị hóa giải, đó là chân tướng sự thật,
chớ nên không hiểu rõ. Quý vị thấy bà Lưu Tố
Vân giảng về chữ “trượng
phu” (chồng) rất khéo, trượng phu là gì? Trong vòng
một trượng thì là chồng mình, ngoài một trượng
bèn chẳng phải. Tôi nói với mọi người chuyện
sít sao nhất, cái gì quý vị có trên thân là của quý vị,
cái gì chẳng ở trên thân thì chẳng phải là của
quý vị, tâm khai ý giải, mảy may vướng mắc
cũng không có.
Thích Ca
Mâu Ni Phật suốt đời nêu gương cho chúng ta.
Vì thế, chúng ta phải học theo Ngài, học giống
như Ngài. Ngài suốt đời theo đuổi sự
nghiệp gì? Giáo học, kể từ ngày khai ngộ lúc ba
mươi tuổi bèn bắt đầu giáo học, tới
bảy mươi chín tuổi viên tịch, [dạy suốt]
bốn mươi chín năm chẳng gián đoạn, chẳng
thiếu một buổi học nào, là một vị thầy
hết sức tận tụy. Ngài mang thân phận là một
vị thầy chuyên nghiệp, thưa quý vị, chẳng hề
dính dáng gì đến tôn giáo. Ngày nay hễ nhắc tới Phật
giáo, hết thảy mọi người đều nghĩ
Phật giáo là tôn giáo, chúng ta chẳng xứng đáng, đã
“đày” Thích Ca Mâu Ni Phật vào trong tôn giáo. Vì thế, tôi nói
tứ chúng đệ tử chúng ta đều phạm tội
lỗi, thầy cả đời dạy học, sao lại
bị tống vào tôn giáo, lẽ nào lại như vậy? Phật
pháp truyền tới Trung Quốc, chúng ta đọc lịch
sử, [kể từ lúc truyền vào] cho tới thời
đầu nhà Thanh, [trải các triều] Khang Hy, Ung Chánh, Càn
Long cho tới Gia Khánh, Phật pháp vẫn là dạy học.
Trong lịch sử [Trung Quốc], Phật giáo biến thành
tôn giáo chưa đầy ba trăm năm, đấy là chuyện
trong thời gần đây. Trước đó, tự viện,
am đường là trường học, bao nhiêu người
thành danh trong lịch sử học hành ở chỗ nào? Học
từ trong chùa chiền! Chùa chiền là trường học,
người đọc sách có thể sống trong chùa. Chùa
chiền rất từ bi, có thể tiếp đãi người
ấy. Trong chùa chiền, người xuất gia đều
là thầy tốt, có năng lực dạy bảo quý vị.
Trước đây, người đi thi Cử Nhân, hay thi
Tiến Sĩ, đến đâu để học? Đều
là đến chùa chiền, chùa chiền có kinh sách. Không chỉ
là kinh Phật, tàng kinh lâu (lầu chứa kinh) là thư viện,
trong ấy thứ gì cũng có. Không thiếu thầy giáo, học
trò bất luận có vấn đề gì, tìm người xuất
gia, người xuất gia đều có thể dạy quý
vị. Vì thế, người có tiền sống trong chùa, bỏ
ra một ít tiền ăn ở; người không có tiền,
chùa chiền vẫn chiếu cố quý vị. Quý vị thấy
Phạm Trọng Yêm cả đời đọc sách trong
chùa, nhà rất nghèo túng, vì thế, sống trong chùa tự lo
liệu ăn uống. Mỗi ngày, ông ta nấu một nồi
cháo, nấu đặc một chút, chia thành bốn phần,
để sống hết ngày. Học hành tốt đẹp,
quý vị thấy về sau ông ta thi đỗ, công danh thành
tựu, xuất tướng nhập tướng[1], cảm niệm nhà chùa đã thành tựu
cho ông ta. Nếu không, ông ta đến đâu để học
hành? Vì thế, thời cổ, chùa chiền có cống hiến
vô cùng to lớn đối với xã hội, thay quốc gia
đào tạo bao nhiêu nhân tài. Chúng ta chớ nên không thông hiểu
những chuyện lịch sử này!
Trước
đây, chùa chiền là trường học, chẳng có kinh
sám Phật sự. Danh xưng của chấp sự trong
chùa chiền cho đến nay vẫn giữ nguyên, nhưng
đã biến chất. Trụ Trì, Phương Trượng
của tự viện là chức vị gì? Hiệu Trưởng.
Thủ Tọa Hòa Thượng là Giáo Vụ Trưởng,
Duy Na là Huấn Đạo Trưởng, Giám Viện là Tổng
Vụ Trưởng. Quý vị thấy có giống như
phân công trong nhà trường hiện thời hay không? Trong một
ngôi chùa, có vài vị Thủ Tọa Hòa Thượng, chẳng
phải là một, chia thành các giảng tòa giảng kinh.
Điện đường là phòng học, pháp sư giảng
kinh rất nhiều, chẳng phải là một, giống
như trường học, chia thành lớp, nhưng [trong mỗi
lớp] đều là thâm nhập một môn, huân tu lâu dài. Giảng
đường này giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng đường
kia giảng kinh Pháp Hoa, giảng đường khác giảng
kinh Vô Lượng Thọ, quý vị muốn học gì bèn
vào giảng đường đó. Quý vị chỉ có thể
học một môn, chẳng thể học hai môn. Vì thế,
trước đây nói là “đến tự viện, viết
thảo kinh đơn”, [tức là] đến nơi ấy
ghi danh [xin học một bộ kinh nào đó], giảng
đường [giảng bộ kinh ấy] sẽ cho quý vị
một chỗ ngồi, ký túc xá cho quý vị một cái
giường, để quý vị có thể an tâm học tập
ở nơi đó. Kỳ hạn là một bộ kinh, quý vị
học xong một bộ kinh có thể rời khỏi. Nếu
muốn học thêm một bộ nữa, lại ghi danh tiếp,
học tiếp một bộ, nhưng thông thường, một
bộ kinh phải giảng mấy tháng. Kinh dài phải mất
một hai năm. Nhà chùa đúng là một trường học,
cớ sao biến thành tình trạng như hiện thời?
Thuở ấy, tôi học Phật cũng cảm thấy rất
kỳ quái, bèn hỏi lão hòa thượng. Lúc đó, tôi theo
lão hòa thượng Đạo An ở Đài Loan, Ngài rất
quan tâm đến tôi, tuổi Ngài cũng đã rất cao.
Tôi thỉnh giáo Ngài, tôi nói kinh sám Phật sự vì sao mà có?
Do ai làm? Ngài suy nghĩ, rồi nói: “Rất có thể là do
Đường Minh Hoàng[2] làm”. Ngài cũng có căn cứ, vì thời
Đường Minh Hoàng gặp phải loạn An Sử, tức
là An Lộc Sơn tạo phản, do Dương Quý Phi dẫn
khởi. Cuộc bạo loạn ấy khiến cho nhà
Đường gần mất ngôi, may mắn là được
một nhóm người như Quách Tử Nghi dẹp yên
cơn biến loạn ấy. Sau khi yên ổn, tại mỗi
nơi chiến trường, Đường Minh Hoàng dựng
một ngôi chùa, đặt tên là chùa Khai Nguyên, vì cuộc
động loạn xảy ra trong niên hiệu Khai Nguyên. Mỗi
địa phương dựng một ngôi Khai Nguyên Tự,
dựng chùa nhằm truy điệu quân dân tử nạn.
Đó là khởi đầu, mang tánh chất kỷ niệm
giống như Trung Liệt Từ[3], thỉnh các vị xuất gia tụng
kinh siêu độ, hồi hướng cho họ. Quốc
gia làm như vậy, nên trong dân gian, người già qua đời,
cũng thỉnh pháp sư đến niệm kinh.
Đương nhiên đó là ngẫu nhiên, có thể thỉnh
pháp sư về nhà niệm kinh, nhất định đều
là những vị quý nhân hay quan chức hiển đạt,
chẳng phải là bình dân. Người xuất gia làm chuyện
này là kèm thêm, thỉnh thoảng làm kèm thêm. Pháp sư Đạo
An bảo tôi, có thể đó là khởi đầu, vì
trước đó, chưa hề nghe nói tới [chuyện tăng
sĩ làm kinh sám Phật sự].
Tôi
nghĩ: Thật sự biến thành tình hình như hiện tại
là do Từ Hy, Từ Hy Thái Hậu tạo oan nghiệt.
Dưới đời nhà Thanh trước kia, đế
vương thường lễ thỉnh học giả Nho,
Thích, Đạo giảng học trong hoàng cung. Hoàng thượng
dẫn phi tần, văn võ bá quan đến nghe giảng,
chế độ này mãi cho đến đời Hàm Phong vẫn
còn (hoàng đế Hàm Phong là chồng của Từ Hy Thái Hậu),
vẫn còn gìn giữ. Giảng nghĩa trong cung đình, giảng
nghĩa Nho, Thích, Đạo. Họ đặc biệt tôn
trọng Phật pháp, [nhưng giảng nghĩa Phật pháp
không bảo lưu] trong Tứ Khố, giảng nghĩa của
Nho gia và Đạo gia đều có trong Tứ Khố Toàn
Thư. Đôi khi, tôi mở [bộ Tứ Khố] ra xem, coi
cách giảng trong hoàng cung của người thuở
trước rốt cuộc là như thế nào. Giảng Tứ
Thư theo cách nào? Giảng Ngũ Kinh theo cách nào? Những bản
giảng nghĩa ấy vẫn còn tồn tại, nhưng
đối với Phật pháp, bèn đặc biệt biên tập
một bộ Đại Tạng Kinh, gọi là Càn Long Đại
Tạng Kinh, không xếp [những bài giảng kinh Phật]
vào Tứ Khố, đó là đặc biệt tôn trọng Phật
pháp. Do lịch đại đế vương đều
là đệ tử Tam Bảo, những vị đại
đức thuộc hàng đức cao vọng trọng
đều phong làm quốc sư. Triều đình nhà Thanh
làm như vậy đó. Sau khi Hàm Phong qua đời[4],
con còn rất nhỏ, con trai Từ Hy Thái Hậu làm tiểu
hoàng đế, quyền lực triều chánh lọt vào tay
bà ta, thùy liêm thính chánh[5]. Cho nên con trai bà ta [có niên hiệu] là
Đồng Trị, tức là bà ta và con trai cùng trị vì quốc
gia, phiền phức khá lớn. Bà ta tin tưởng quỷ
thần, bãi bỏ chuyện thỉnh đại đức
giảng học trong cung đình, điều này có ảnh
hưởng quá lớn đối với văn hóa truyền
thống Trung Quốc. Vì sao văn hóa truyền thống hiện
thời suy vi đến nỗi này? Đầu sỏ là Từ
Hy Thái Hậu, tin tưởng cầu cơ, chẳng tin kinh
điển, cũng chẳng nghe lời, tin tưởng các
vị cao tăng đại đức. Bà ta cầu cơ
phù loan, kết quả là quốc gia tiêu vong từ đó. Thuở
tôi còn trẻ, Chương Gia đại sư kể cho tôi
nghe chuyện này. Chương Gia đời trước[6] là quốc
sư của Từ Hy Thái Hậu, toàn là hữu danh vô thực,
bà ta cũng chẳng hỏi ý Ngài. Trong quá khứ, hễ thật
sự gặp đại sự nghi nan, đế
vương bèn hỏi ý kiến các vị đại đức,
tức các vị đại đức Nho, Thích, Đạo,
họ cũng giống như cố vấn của hoàng
thượng. Từ Hy Thái Hậu rất tôn trọng họ,
nhưng chẳng nghe lời, mà nghe theo quỷ thần. Vì vậy,
[Phật giáo Trung Quốc] phải là hoàn toàn bị biến chất
vào lúc ấy.
Hiện
thời, tự viện am đường Phật giáo nhìn
không ra diện mục giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật,
hoàn toàn chẳng nhìn thấy, Phật giáo bị biến
thành mê tín. Hơn nữa, trong tôn giáo, Phật giáo lại là
tôn giáo cấp thấp. Tôn giáo cao cấp chỉ có một thần,
một vị chân thần, trong Phật giáo thờ Phật,
Bồ Tát quá nhiều, người ta nghĩ các Ngài đều
là thần, nên gọi Phật giáo là phiếm thần giáo, hoặc
đa thần giáo. Phiếm thần giáo, đa thần giáo
là tôn giáo cấp thấp. Tứ chúng đệ tử chúng
ta ngày nay đều có nghĩa vụ giảng rõ ràng, rành rẽ
chuyện này cho xã hội. Cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật
là giáo dục, nói theo cách bây giờ là văn hóa xã hội
giáo dục đa nguyên, giáo dục trọn khắp thế
gian, có thể mang lại an định, hòa bình cho xã hội,
có thể mang lại hạnh phúc mỹ mãn cho hết thảy
chúng sanh, là giáo dục luân lý, giáo dục đạo đức,
giáo dục nhân quả, những điều ấy đều
được gồm trong Phật giáo. Một số ít học
giả, chuyên gia lại mong muốn tiến cao hơn, trong
kinh Phật có giáo dục triết học và giáo dục khoa
học, đều giảng đến mức viên mãn rốt
ráo. Ngày nay, [kẻ khác] nói Phật giáo là tôn giáo, chúng ta
cũng chẳng thể không thừa nhận, nó đã thật
sự biến thành tôn giáo. Chúng ta đi theo con đường
này là đi theo con đường giáo dục của Thích Ca
Mâu Ni Phật. Lúc tôi mới xuất gia, các đồng tham,
đồng học cũng đều rất muốn đi
theo con đường này, nhưng lại sợ hãi, sợ
gì vậy? Sợ đi theo con đường này trong tương
lai sẽ chết đói, không có ai cúng dường! Kinh sám
Phật sự, học ba tháng đánh pháp khí, xướng niệm
là được rồi, đã có thể kiếm tiền;
làm mười năm, hay tám năm, tích cóp có thể dựng
một ngôi chùa nhỏ, [nên đại đa số người
xuất gia] đều đi theo con đường ấy,
chứ giảng kinh, giáo học mọi người đều
sợ. Tôi sống cả đời chẳng chết
đói, vẫn sống khá lắm, nhưng con đường
này (giáo học, giảng kinh) vô cùng khổ cực, vì sao khổ
sở ngần ấy? Chúng ta phải hiểu rõ ràng, rành rẽ
nguyên nhân, chẳng đi theo [con đường này] sẽ
chẳng được! Hy vọng mọi người nỗ
lực khôi phục nền giáo dục Phật giáo. Nếu
chẳng khôi phục giáo dục, Phật giáo chẳng có
địa vị trong xã hội, rất đáng
thương! Tất cả các tôn giáo, không chỉ riêng Phật
giáo, đều phải trở về giáo dục, vì sao? Quý
vị thấy mỗi vị sáng tổ tôn giáo đều là
nhà giáo dục xã hội. Gia Tô (Jesus) dạy ba năm, bị
kẻ khác hại chết. Mục Hãn Mặc Đức
(Mohammed, Muhammad) dạy hai mươi bảy năm. Quý vị
quan sát cẩn thận, vị giáo chủ sáng lập tôn giáo
nào thoạt đầu chẳng phải là dạy học? Nếu
tôn giáo trở về giáo dục, tôn giáo sẽ được
xã hội chấp nhận, vì nó cống hiến, tạo lợi
ích cho xã hội, mọi người tự nhiên ủng hộ,
giúp đỡ quý vị phát triển. Quý vị là giáo dục,
xã hội cần quý vị, khác hẳn! Do vậy, chúng tôi học
tập đến chỗ này, cảm khái rất sâu.
Chúng ta lại
xem đoạn kế tiếp: “Diệc
khả tuy ngoại hiện Thanh Văn, nội bí Bồ Tát
chi hạnh, cố danh đại thánh” (Cũng có thể hiểu
là tuy bề ngoài hiện làm Thanh Văn, bên trong ẩn giấu
hạnh Bồ Tát nên gọi là Ðại Thánh). Đây là
nói về sự biểu thị pháp, xác thực có ý nghĩa
này, nhưng trong kinh Đại Thừa, đức Phật
cũng dạy rõ, chuyện này chẳng phải là giả.
Trong các đệ tử thường tùy của đức
Phật, quả thật có không ít vị đã thành Phật,
thả chiếc bè Từ, đến giúp Thích Ca Mâu Ni Phật
giáo học. Như Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất
đều đã sớm thành Phật, lần này Thích Ca Mâu
Ni Phật thị hiện làm Phật, các Ngài đến làm
đệ tử. Chẳng phải là người thông hiểu,
lão luyện, sẽ chẳng thể nêu câu hỏi, họ
cùng đức Phật một hỏi, một đáp, cố
ý làm bộ không hiểu để đức Phật giải
thích cho mọi người nghe, chẳng phải là các Ngài
thật sự không hiểu. Ngay cả ngài A Nan cũng chẳng
phải là phàm nhân, A Nan thị hiện Sơ Quả, Mục
Kiền Liên, Xá Lợi Phất thị hiện làm Tứ Quả
La Hán, Bồ Tát chúng lại càng không cần phải nói nữa!
Chư vị đều biết Văn Thù, Phổ Hiền,
Quán Âm đã sớm thành Phật, hiện tại mang thân phận
Phật ở thế giới phương khác, nhưng
đến khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật bèn
mang thân phận Bồ Tát, đều là đến thị
hiện. Do vậy, “ngoại hiện
Thanh Văn” là ý nghĩa về mặt Hiển, “nội bí Bồ Tát hạnh”
là Ẩn. Ẩn và hiện khác nhau, những vị này đều
là bậc đại thánh.
“Tịnh Ảnh Sớ viết,
Đại hữu lưỡng nghĩa, nhất, vị cao
danh Đại” (Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Đại
có hai nghĩa: Một là địa
vị cao lớn, nên gọi là Đại”), chủ yếu
nói các vị tỳ-kheo có địa vị cao. Trong Phật
pháp có học vị, nên Phật pháp đích xác là giáo dục.
Phật, Bồ Tát, A La Hán là các danh xưng học vị
trong Phật môn. Quý vị buông chấp trước xuống,
đoạn Kiến Tư phiền não, sẽ đắc
Chánh Giác, sẽ được gọi là A La Hán. Vì vậy,
đấy là học vị, quý vị chứng đắc học
vị thứ nhất. Quý vị lại có thể buông phân
biệt xuống, và cũng đoạn sạch Trần Sa
phiền não, bèn chứng học vị thứ hai là Chánh
Đẳng Chánh Giác. Đấy là Bồ Tát. Lại tiến
thêm bước nữa, không khởi tâm, chẳng động
niệm, và cũng buông vô thỉ vô minh xuống, sẽ thành
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, bèn gọi là Phật
Đà, đây là học vị tối cao. Vì thế, Phật
Đà, Bồ Tát, A La Hán là ba học vị trong nền giáo dục
của đức Phật; hết thảy chúng sanh vốn
là Phật, tức là ai cũng đều có thể đạt
được học vị tối cao. Điều này khác
với tôn giáo! Trong tôn giáo, chỉ có một Thượng
Đế, thần cũng chỉ có một, con người
và thần chẳng ngang hàng, không thể nào [có chuyện con
người tu thành Thượng Đế]. Nhà Phật chẳng
giống như vậy, nhà Phật là “hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật”,
kinh nói rất hay: “Hết thảy
chúng sanh đều có Phật tánh”. Đã có Phật tánh,
nhất định có thể chứng đắc Phật
quả. Do vậy, nói theo tự tánh, vốn là Phật. Nói
theo phương diện tu hành, quý vị nhất định
có thể đạt được học vị này. Đó
là địa vị cao, là ý nghĩa của chữ Đại.
Thứ hai là “đức thắng”,
[nghĩa là] đức thù thắng, vượt trỗi hết
thảy tiểu thánh, nên gọi là Đại. “Hội chánh vi thánh” (hiểu
biết đúng đắn là thánh), Chánh là chánh tri chánh kiến,
đấy là thánh nhân. Tại Trung Quốc, các Ngài được
gọi là Thánh, ở Ấn Độ, các Ngài được
gọi là Phật. Chúng ta chớ nên không biết những ý
nghĩa được bao hàm trong các danh từ thuật ngữ
này.
“Tổng thượng khả kiến, hoặc tùng
đức nhi ngôn, khế ư Không lý, hội hợp chánh
đạo viết Thánh” (Tổng
hợp những điều trên đây,
ta thấy: Nếu từ đức mà nói thì khế hợp
lý Không, hiểu đúng chánh đạo nên gọi là Thánh).
Đây là giải thích ý nghĩa chữ Thánh trong Đại
Thánh. “Hoặc tùng vị
nhi ngôn, Sơ Quả dĩ thượng, xưng Thánh” (Hoặc từ địa vị mà nói thì từ
Sơ Quả trở lên đều gọi là Thánh); đấy
là tiểu thánh, chúng ta gọi Tu Đà Hoàn là vị
thánh nho nhỏ, Ngài thật sự là thánh nhân, trọn chẳng
phải là phàm nhân. “Duy hồi
Tiểu hướng Đại, hành Bồ Tát đạo, trực thú Phật quả giả (nãi danh cứu
đại A La Hán)” (chỉ có những ai hồi Tiểu
hướng Ðại, hành Bồ Tát đạo, hướng
thẳng đến Phật quả (mới gọi là tột
cùng quả Ðại A La Hán)), thật sự hồi Tiểu
hướng Đại, sốt sắng nỗ lực tu học
Đại Thừa sẽ được là “đại thánh”. Mặt khác, “đại quyền thị hiện”
đương nhiên lại càng chẳng cần phải nói
nữa, đều là Bồ Tát tái lai, Pháp Thân đại
sĩ tái lai, đương nhiên là đại thánh. Ý
nghĩa “đại thánh”
được nói đến đây.
Tiếp
đó, nói về thần thông, tức “thần thông dĩ đạt” (thần thông đã
đạt). “Hựu Tịnh Ảnh
viết, thần thông dĩ đạt, thán kỳ đức
thắng, sở vi thần dị” (Ngài
Tịnh Ảnh lại nói: “Thần
thông đã đạt là khen ngợi đức của họ
thù thắng, việc làm thần dị”), “sở vi” (所為) là những việc họ làm, thần
thông biến hóa. Chúng ta phải nhìn ra ý nghĩa của chữ
Thần (神). Văn tự Trung Quốc là phù hiệu
trí huệ, quý vị thấy chữ này ở trước mặt
chúng ta, đối trước văn tự, bên trái là chữ
Thị (示), tức chữ Thị trong Thị Hiện
(示現). Phía trên chữ Thị là một vạch
ngắn, chẳng phải là một chấm, hiện thời
[trong chữ Thần, vạch ngắn phía trên chữ Thị
được viết thành] một chấm. Nếu quý vị
viết [chữ Thần theo lối] chữ Triện sẽ
thấy, trong lối chữ Triện, chẳng phải là một
chấm, mà là một vạch. Phía trên là một vạch ngắn,
phía dưới là một vạch dài. Vào thời cổ, chữ
này được gọi là Thượng, tại thượng
(ở trên). Phía dưới có ba vạch, ba vạch là diễn
tả hình tượng, tức là hiện tượng tự
nhiên, [điều đó được gọi là] “thùy tượng” (biểu thị
hình tượng). Thể hiện ý nghĩa gì? Hiện
tượng được biểu hiện trên trời.
Nói theo cách bây giờ sẽ là “hiện tượng tự
nhiên”, mọi người hiểu ngay: Chữ Thị biểu
thị hiện tượng tự nhiên. Cạnh đó là chữ
Thân (申). Chữ Thân viết theo lối Cổ
Triện sẽ giống như có ba cái ải, chính giữa
có một thanh gươm báu kéo xuống[7],
nên gọi là Thông; [ý nói]: Vượt qua ba ải thông suốt.
[Do vậy chữ Thần] có ý nghĩa: Người thông
đạt hiện tượng tự nhiên được
gọi là Thần, đấy là giải thích ý nghĩa gốc
của chữ này. Có một lần tôi đến thăm Cục
Tôn Giáo Trung Quốc, cục trưởng Diệp Tiểu
Văn tiếp đãi tôi, có nhắc tới chữ Thần
này, tôi viết ra cho ông ta xem, giảng cho ông ta nghe. Ông ta bảo:
“Nói như vậy thì vô thần luận nói chẳng suông!”
Tôi đáp: “Đúng vậy! Chữ Thần có ý nghĩa ấy”.
Quý vị phải hiểu ý nghĩa bao hàm trong văn tự
Trung Quốc, quả thật là phù hiệu trí huệ.
Người Trung Quốc nói thần nhân và thánh nhân; thần
nhân và thánh nhân ý nghĩa tương thông. Thần là người
thông đạt hết thảy hiện tượng vũ
trụ, người ấy gọi là thần nhân. Thánh nhân:
Thánh là hiểu rõ, người hiểu rõ chân tướng của
vũ trụ và nhân sinh gọi là thánh nhân. Do vậy, thần
thánh thường dùng chung. Họ là người, chẳng dính
dáng gì đến quỷ thần. Giảng rõ ràng, minh bạch.
Sách Thuyết Văn Giải Tự[8] giảng rất rõ ràng, đấy là phù
hiệu trí huệ.
“Vô ủng viết
thông” (Không bị úng trệ là Thông), đây là nói tới
chướng ngại. Không có chướng ngại bèn thông
đạt. “Sở vị Thân
Thông, Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, cập dữ
Lậu Tận” (tức là Thân
Thông (Thần Túc
Thông), Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ,
Tha Tâm, Túc Mạng và Lậu Tận), những thứ
này [ngoại trừ Lậu Tận] được gọi
đơn giản là “ngũ chủng thần thông”
(năm thứ thần thông). Năm thứ ấy, hiện
thời, trong nước gọi người có năng lực
này là “công năng đặc dị”, Phật pháp nói những
năng lực ấy là bản năng (năng lực sẵn
có) của chúng ta, mỗi cá nhân chúng ta đều có;
nhưng vì sao bị mất đi? Vì quý vị vọng niệm
quá nhiều, phiền não dấy lên, nên bị chướng
ngại, nguyên nhân là như vậy đó. Vì thế, tu Định
nhằm dễ dàng khôi phục năng lực ấy. Tu
Định là tu tâm thanh tịnh. Tâm phải đạt
đến thanh tịnh, bình đẳng, năng lực ấy
sẽ tự nhiên khởi lên, hiện tiền. Vì thế,
điều này chẳng có gì là hiếm hoi, lạ lùng, chúng
là bản năng của con người. Tâm thanh tịnh sẽ
khôi phục. Quý vị đọc kinh điển thấy Tu
Đà Hoàn có thể đoạn tám mươi tám phẩm Kiến
Hoặc, cũng là buông xuống, bèn khôi phục hai thứ
năng lực, một là Thiên Nhãn, hai là Thiên Nhĩ. Hạng
người bình phàm như chúng ta không thấy, nhưng Ngài
có thể thấy, có thể nhìn xuyên vách tường, chúng
ta gọi đó là “công năng đặc dị”. Ngài có thể
nghe những âm thanh chúng ta không nghe được. Nếu
là Tu Đà Hoàn, chúng ta đang tiến hành hoạt động
giảng kinh giáo học ở tầng mười một,
người ở mười tầng dưới làm gì, quý
vị vừa nhìn liền thấy toàn bộ. Đó là Tu
Đà Hoàn thật sự. Nếu nói “ta đã chứng đắc
quả Tu Đà Hoàn”, mà hỏi có thấy chuyện sát vách
hay không? Chẳng thấy! Đó là giả, chẳng thật.
Tu Đà Hoàn nhất định có năng lực ấy.
Nếu
quý vị chứng Nhị Quả Tư Đà Hàm, quý vị
có thêm hai thứ năng lực nữa là Tha Tâm và Túc Mạng,
trong tâm người khác nghĩ chuyện gì, quý vị sẽ
biết. Túc Mạng là đối với chính mình, đời
đời kiếp kiếp quá khứ của ta [đều
biết rõ]. A La Hán có thể biết năm trăm đời
quá khứ. Tôi tin Nhị Quả phải biết ba đời,
năm đời, mười đời, hai mươi
đời chẳng có vấn đề gì. Ngài biết trạng
huống trong đời đời kiếp kiếp quá khứ.
Tam Quả A Na Hàm, Thần Túc Thông giống như Tôn Ngộ
Không, có thể biến hóa, có thể phân thân, nhưng lợi
hại hơn, thánh nhân Tam Quả mà! Tứ Quả là A La
Hán, Lậu Tận Thông, cũng có nghĩa là đoạn hết
Kiến Tư phiền não, thoát ly lục đạo luân hồi.
Trong lục đạo, Ngài chẳng có tí chướng ngại
nào, cũng là ra vào lục đạo tự tại. Nay chúng
ta chẳng thể ra khỏi lục đạo, nhưng
Ngài có thể thoát ra. Đấy là bản năng, chẳng
hiếm hoi, lạ lùng tí nào, công phu định lực của
quý vị càng sâu, năng lực càng mạnh. A La Hán chỉ
có thể biết năm trăm đời quá khứ; nói
cách khác, năng lực ấy chẳng phải là rất lớn.
Bồ Tát có nhiều tầng cấp, Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, càng lên cao, năng lực ấy
càng lớn, càng thù thắng. Thiên Nhãn của A La Hán có thể
thấy một tiểu thiên thế giới; ngài A Nậu
Lâu Đà là một vị A La Hán đặc biệt trong các
vị A La Hán, vì mắt Ngài đã hỏng, đức Thế
Tôn dạy Ngài tu Thiên Nhãn, Ngài tu thành công. Thiên Nhãn của Ngài
khác các vị A La Hán thông thường, có thể thấy
tam thiên đại thiên thế giới. A La Hán thông thường
chỉ có thể thấy một tiểu thiên thế giới,
chỉ riêng Ngài có thể thấy tam thiên đại thiên thế
giới. Tam thiên đại thiên thế giới là khả
năng thấy được [bằng Thiên Nhãn] của các
vị Bồ Tát thông thường. Đối với tam
thiên đại thiên thế giới, các phẩm Hoa Tạng
Thế Giới và Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa
Nghiêm nói thế giới vô lượng vô biên, quý vị không
có chướng ngại, sẽ đều có thể thấy.
Vì vậy, triết học và khoa học được giảng
trong kinh Phật là cảnh giới Hiện Lượng, chẳng
phải là tầm thường; [những cảnh giới ấy
do] đức Phật đích thân trông thấy. Các nhà khoa học
hiện thời suy diễn từ toán học [rút ra] những
thông tin, sau đấy dùng dụng cụ khoa học để
quan sát, thấy được một chút; nói chung, vẫn
chưa thể nói rõ ràng. Phật pháp giảng vô cùng rõ ràng,
vì sao? Đức Phật trông thấy, năng lực ấy
được khôi phục toàn bộ, các khoa học gia và
triết học gia chẳng có cách nào sánh bằng, phải
biết điều này! Ở đây, đức Phật dạy
chúng ta, chỉ cần quý vị khéo tu, sẽ có thể chứng
đắc, đó là bản năng của quý vị. Ngài giảng
trí huệ, đức năng, tướng hảo, những
đức năng ấy đều là những thứ chính
quý vị vốn sẵn có, phải nên khôi phục. Sau khi
quý vị khôi phục, đúng là không gì chẳng biết,
không gì chẳng thể, chẳng phải là giả, tuyệt
đối chẳng phải là mê tín. Hôm nay đã hết thời
gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này.
Tập 88
Chư vị
pháp sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Kinh Giải, trang chín mươi tám, xem từ dòng thứ
năm:
“Hựu Tịnh Ảnh viết: Thần
thông dĩ đạt, thán kỳ đức thắng. Sở
vi thần dị, cố danh viết Thần. Vô ủng viết
Thông. Sở vị Thân Thông, Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng, cập dữ Lậu Tận.
Cố tri Thần vi bất trắc chi nghĩa, Thông vi vô ngại
chi nghĩa”
(Ngài Tịnh Ảnh lại nói: “Thần thông đã đạt: Khen ngợi đức
của họ thù thắng. Việc làm thần dị nên gọi
là Thần. Không bị úng trệ là Thông, [Thần
Thông] chính là Thân Thông (Thần
Túc Thông), Thiên Nhãn, Thiên
Nhĩ, Tha Tâm, Túc Mạng và Lậu Tận. Vì vậy, Thần
nghĩa là chẳng lường được, Thông
nghĩa là vô ngại”). Hôm qua chúng ta đã học đến
chỗ này, do thời gian hạn chế nên chưa giảng
xong đoạn này; hôm nay lại tiếp tục giảng lần
nữa. “Thần thông dĩ
đạt”, “đạt”
(達) là
thông đạt (通達). Trong Phật pháp nói đến sáu thứ
thần thông này. Thuở đức Thế Tôn tại thế,
chúng ta biết Ấn Độ thuở ấy là một
nước tôn giáo, tôn giáo thịnh vượng nhất, cũng là một nơi có trình
độ học thuật cao nhất nếu nói theo [quy mô]
cả thế giới. Vì thế, đức Phật xuất
hiện ở nơi ấy, vô cùng hợp lý! Đức Phật
chẳng xuất hiện tại Trung Quốc, mà xuất hiện
ở Ấn Độ, tức là trình độ văn hóa của
Ấn Độ cao hơn Trung Quốc. Thật ra, Phật
cũng xuất thế ở Trung Quốc, nhưng chẳng
dùng thân phận Phật, tôi cảm thấy Khổng, Mạnh,
Lão, Trang, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang đều là Phật, Bồ
Tát tái lai. Trong quá khứ, tôi từng hỏi lão cư sĩ
Lý Bỉnh Nam xin Ngài chứng thực một phen. Sau khi nghe
xong, Ngài cười, bảo tôi: “Nói
theo Lý thì hợp lẽ, nhưng về mặt Sự chẳng
có chứng cứ”. Thiếu chứng cứ về mặt
Sự, nhưng nói theo Lý cũng suông. Nay chúng ta gọi sáu thứ
năng lực ấy là “công năng đặc dị”, thật
ra chúng là “bản năng” (năng lực sẵn có) của
chúng ta, hết thảy chúng sanh ai nấy trọn đủ,
ai không có? Ai nấy đều có. Vì sao chúng chẳng hiện
ra? Do có chướng ngại ngăn trở. Chướng
ngại ấy thường được gọi là “nghiệp
chướng”, nói tóm lại là phiền não. Phiền não có ba
loại lớn: Vô Minh phiền não, Trần Sa phiền não,
và Kiến Tư phiền não; ba loại này khiến cho bản
năng, trí huệ và tướng hảo của chúng ta thảy
đều bị chướng ngại. Vì thế, trong kinh
Đại Thừa đức Phật thường nói: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”,
sáu thứ ấy là đức, thuộc về năng lực,
sáu thứ ấy cũng bị chướng ngại. “Tướng” là tướng hảo, nó cũng được người
Hoa gọi là “phước báo”. Trong nhà Phật, phước
báo được gọi là “tướng hảo”. [Do phiền
não mà trí huệ, đức tướng] đều bị
chướng ngại, [Phật và chúng sanh] vốn là bình
đẳng.
Người
phát hiện sáu thứ ấy sớm nhất chẳng phải
là Thích Ca Mâu Ni Phật, ai phát hiện? Bà La Môn giáo, tức là
Hưng Đô giáo (Hinduims) hiện thời. Họ có lịch
sử hơn một vạn năm, tôi tin họ, tôi có qua lại
với họ. Hình như lầu ba [trong cao ốc này] là Ấn
Độ giáo. Họ không coi trọng lịch sử, cho nên
không ghi chép lịch sử, tương truyền [Ấn
Độ giáo đã tồn tại] hơn một vạn
năm. Hiện thời, những người nghiên cứu
lịch sử trên thế giới thừa nhận họ có
tối thiểu tám ngàn năm trăm năm lịch sử.
Chiếu theo ghi chép của Trung Quốc cổ đại về
Phật giáo, như những người cùng thời đại
với lão hòa thượng Hư Vân đều dùng niên đại
[Phật giáo] theo cách ghi chép của Trung Quốc thời cổ:
Năm Thích Ca Mâu Ni Phật xuất sanh tương
đương với năm thứ hai mươi bốn
đời Châu Chiêu Vương của Trung Quốc, đức
Phật viên tịch nhằm năm thứ năm
mươi ba đời Châu Mục Vương, sách vở
Trung Quốc đều ghi chép như thế. Nếu ghi chép
theo lối ấy, từ lúc Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch
cho tới ngày nay phải là ba ngàn lẻ ba mươi bảy
năm, gần như sai lệch sáu trăm năm so với
cách nói của người ngoại quốc. Chúng ta không cần
phải khảo sát chuyện này, [vì nó] chẳng có mảy
may ý nghĩa gì, chúng ta [chỉ quan tâm] liễu giải chân
tướng sự thật. Do thuở đức Thế
Tôn xuất hiện tại Ấn Độ, Ấn Độ
đã có văn hóa cao như vậy; đương nhiên
năm thứ thần thông trong Bà La Môn giáo đều có, chỉ
có Lậu Tận là không có, năm thứ trước họ
đều có; vì thế, chúng ta cũng chớ nên xem thường
[Bà La Môn giáo]. Hãy suy nghĩ sẽ thấy vì sao Thích Ca Mâu Ni
Phật giáng sanh nơi ấy, rất có lý!
Phàm phu
làm như thế nào để đạt được
các loại bản năng ấy? Hiện thời, công
năng đặc dị có hai loại:
1) Một là do bẩm
sanh. Nói chung, người bình thường, lúc còn chưa biết
nói có thể là đều có, vì bẩm tánh thiên chân, tâm địa
thanh tịnh, chưa bị ô nhiễm, nên có năng lực ấy.
Chúng ta quan sát cẩn thận trẻ thơ, sẽ nhận
thấy khi trẻ đang ngủ trong nôi, có lúc nó tự mỉm
cười, cũng như nó có rất nhiều động
tác biểu lộ giống như có người đùa với
nó, chơi với nó. Thật đấy! Nó có thể thấy,
nghe. Dần dần khôn lớn, công năng đặc dị
bẩm sanh [bị mất đi], phổ biến nhất là
Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, người bình thường chúng ta
nhìn không thấy, nhưng họ (người có công năng
đặc dị) nghe được, người bình phàm
chúng ta chẳng nghe được, nhưng họ có thể
thấy, hai thứ [năng lực] này bình thường nhất,
và khôi phục cũng dễ dàng nhất. Năng lực bẩm
sinh ấy, chúng ta gọi là “công năng đặc dị”,
có thể mất đi hay không? Có thể! Tôi đã từng
phỏng vấn hai ba người có năng lực ấy,
tôi hỏi họ tới hai mươi mấy tuổi có bị
mất đi hay không? Có thể! Năng lực của họ
lúc hai mươi mấy tuổi kém lúc mười mấy
tuổi. Lúc mười mấy tuổi, năng lực mạnh
mẽ, hai mươi mấy tuổi yếu đi, khoảng
chừng ba mươi mấy tuổi sẽ chẳng còn nữa.
Vì sao? Đầu óc có quá nhiều thứ, quá phức tạp,
nên mất đi năng lực. Vì thế, chúng tôi biết
[công năng đặc dị có thể bị mất].
2) Một loại khác
là người tu đạo. Ngoài Phật giáo ra, gần
như tất cả các tôn giáo ở Ấn Độ đều
tu Thiền Định, do Thiền Định có thể
đạt được [thần thông]. Đạt
được lớn hay nhỏ tùy thuộc công phu định
lực của quý vị sâu hay cạn. Công phu sâu, năng lực
đặc biệt mạnh. Công phu cạn hơn một
chút, năng lực cũng cạn hơn một chút, tỷ
lệ thuận với công phu tu hành. Quý vị thấy Bà La
Môn của cổ Ấn Độ đã nhìn thấy lục
đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi là thật,
chẳng giả, chẳng do đức Phật nói, chẳng
phải là [điểm đặc biệt] của Phật
giáo, mà do Bà La Môn giáo nói. Vì sao họ biết? Họ thấy
trong Định. Người trong trạng thái Thiền
Định sẽ đột phá các chiều không gian, các
khoa học gia đã chứng thực điều này, thật
sự tồn tại những chiều không gian khác nhau. Rốt
cuộc có bao nhiêu chiều không gian? Nói theo lý luận thì chẳng
có số lượng, nhưng nói theo tình hình thực tế,
hiện thời các khoa học gia khẳng định tối
thiểu có mười một chiều không gian khác nhau!
Năm
xưa, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ kể cho tôi nghe
chuyện ấy, cụ nghiên cứu khoa học, có căn
cơ Phật pháp rất sâu, bản chú giải chúng ta
đang đọc hiện thời là do cụ viết. Tôi
đến thăm cụ rất nhiều lần, là bạn
già của cụ, mà cụ cũng là thầy của tôi. Cụ
là truyền nhân của lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Từ
bản chú giải này, chúng ta có thể thấy lão cư
sĩ đã vun đắp Phật học khá sâu dầy,
duyên phận với Phật thù thắng khôn sánh. Nếu nói
theo cách nói thông thường của Trung Quốc, cụ chẳng
phải là phàm nhân tái lai, cụ và Hạ lão cư sĩ
cũng phải do có sứ mạng mà đến đây, tức
là chỉnh lý kinh Vô Lượng Thọ một lần nữa,
biên tập thành một bản hoàn hiện để hết
thảy chúng sanh trong chín ngàn năm đời mai sau thuộc
thời Mạt Pháp học Phật sẽ đắc độ
trong một đời do nương tựa bộ kinh điển
này. Cụ Hạ hội tập hoàn thành, để học
trò của cụ là cụ Hoàng Niệm Tổ soạn chú giải
cho kinh này. Sau khi hội tập kinh này thành công, cụ Hạ
đã giảng mấy lượt, lão cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ đã nghe từ đầu đến cuối. Cụ
bảo tôi, khi đó cụ có chép bút ký, đáng tiếc là khi
viết bản chú giải này thì những bản bút ký, tài
liệu thời đó đều bị mất sạch.
Hơn nữa, cụ viết tác phẩm này trong khi đang
bệnh, chính mắt tôi thấy, tôi vô cùng cảm động.
Vì thế,
đức Phật bảo chúng ta sáu thứ [năng lực]
ấy là bản năng. Ngũ thông của thiên thần là
báo đắc (do quả báo mà có), quý vị sanh lên trời tự
nhiên sẽ có. Quỷ thần cũng có ngũ thông, cũng
do báo đắc. Nói thật ra, con người cũng có
“báo đắc ngũ thông”, nhưng vì tập khí phiền
não quá nặng nên bị mất đi.
Tâm chúng ta càng thanh tịnh, chúng sẽ được khôi phục.
Quý vị thấy trong tựa đề kinh này, học Phật
là học gì? Tuy nói là tám vạn bốn ngàn pháp môn, đó là
phương pháp, “pháp”
là phương pháp, “môn” là
môn kính (門徑: đường lối), phương
pháp và đường lối rất nhiều, không phải
chỉ là tám vạn bốn ngàn. Quý vị thấy trong Tứ
Hoằng Thệ Nguyện có nói: “Pháp
môn vô lượng thệ nguyện học”, thật
đấy, chẳng có số lượng. Tu gì? Bất luận
pháp môn nào, [nói theo] tựa đề kinh này, đều là tu
“thanh tịnh, bình đẳng, giác”, tu những điều ấy.
Hiện nay, chúng ta chọn lựa phương pháp Trì Danh Niệm
Phật của Tịnh Độ Tông, phương pháp ấy
thuận tiện, chẳng có bất luận trói buộc gì,
đi, đứng, ngồi, nằm đều có thể tu.
Thật sự tu đến mức công phu tương ứng,
nói thật ra, cũng chẳng kém “tam mật tương ứng”
của Mật Tông. Trì Danh của Tịnh Tông và Mật Tông
chẳng khác gì nhau. Trong tâm quán tưởng, chúng ta niệm
Phật, trong tâm phải có A Di Đà Phật, đó là tâm
quán tưởng. Miệng niệm, ra tiếng hay không ra tiếng
đều được, niệm thầm, hoặc là Kim
Cang Trì. Nói Kim Cang Trì nghĩa là miệng máy động
nhưng không có âm thanh. Tay kết ấn, chúng ta tay lần
tràng hạt cũng là kết ấn, không dùng tràng hạt
cũng là kết ấn. Vì thế, phương pháp này vô
cùng thuận tiện, hết sức thiện xảo.
Phải
niệm đến mức nào? Phải niệm đến mức
tâm thanh tịnh hiện tiền, phải biết điều
này. Hằng ngày niệm Phật, một ngày niệm mấy
vạn tiếng, trong tâm vẫn rối ren tơi bời,
tuy niệm, chẳng có công phu. Điều trọng yếu
nhất là công phu hiện tiền, quý vị thấy kinh Di
Đà dạy “nhất tâm bất
loạn”, kinh Vô Lượng Thọ dạy “nhất hướng chuyên niệm”
(một dạ chuyên niệm), tâm thanh tịnh có thể hiện
tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền, sáu thứ bản
năng ấy sẽ dần dần khôi phục. Vì vậy,
vũ trụ do đâu mà có? Vạn vật xuất hiện
như thế nào? Ta do đâu mà có? Các khoa học gia hiện
thời cũng rất lỗi lạc, dần dần nói
càng ngày càng giống với Phật pháp, nhưng từ ba
ngàn năm trước, đức Thế Tôn chẳng có dụng
cụ khoa học, vì sao Ngài biết? Ngài thấy bằng
Thiên Nhãn, nghe bằng Thiên Nhĩ, đó là cảnh giới Hiện
Lượng trong Định, chẳng phải là Tỷ
Lượng. Quá nửa những thứ do các khoa học gia
hiện thời phát hiện là Tỷ Lượng, họ quan
sát Hiện Lượng bằng các máy móc tinh vi, không có máy
móc sẽ chẳng thể nhìn thấy, họ dùng kính hiển
vi có độ khuếch đại rất cao để
quan sát tế bào hoặc quan sát nguyên tử. Hiện thời,
ngày càng thấy tinh vi hơn, họ thấy lượng tử.
Lượng tử còn gọi là tiểu quang tử, phát hiện
hạt căn bản do đâu mà có? Từ các tiểu quang tử
tích lũy thành, trở thành một hạt căn bản. Hạt
căn bản tích lũy thành nguyên tử, càng ngày càng lớn,
đó là thế giới vi mô.
Tha Tâm là
trong tâm người khác dấy lên niệm gì đều biết,
rất lợi hại, có chuyện này hay không? Có! Năm
xưa tôi ở Đài Loan, thuở ấy vừa mới học
Phật chưa bao lâu đã xuất gia. Lão pháp sư Lạc
Quan, hiện thời những vị pháp sư thuở ấy
đều đã mất, họ thuộc thế hệ
trước. Ở Đài Loan có pháp sư Chử Vân là bạn
già của tôi, Ngài lớn hơn tôi năm tuổi, cũng
đã khuất, có viết một cuốn sách nhan đề
Kim Sơn Hoạt Phật (Phật sống chùa Kim Sơn).
Đấy là chùa Giang Thiên ở Nam Kinh thuộc Trung Quốc
Đại Lục, tức Kim Sơn Tự, ở trên một
hòn đảo nhỏ trong sông Trường Giang. Đây là một
đạo tràng Thiền Tông rất nổi tiếng, Kim
Sơn Hoạt Phật xuất hiện ở đấy,
Ngài có pháp danh là Diệu Thiện, tức là pháp sư Diệu
Thiện. Hành vi, dáng vẻ rất giống Tế Công,
cũng rất lôi thôi, suốt năm khoác một chiếc
áo dài, bên trong là một cái quần ngắn, bên ngoài mặc
áo dài, ăn mặc không giống ai! Xuân, Hạ, Thu, Đông
đều đóng bộ như thế, mùa Đông cũng
chẳng lạnh, mùa Hè cũng chẳng nóng. Ngài có Tha Tâm
Thông. Pháp sư Lạc Quan ở cùng chỗ với Ngài suốt
bốn tháng. Người sùng bái pháp sư Diệu Thiện
rất nhiều. Pháp sư Lạc Quan thường nghĩ
xem thử có thể phát hiện [pháp sư Diệu Thiện
có] lỗi lầm nào hay chăng, rất chú ý nhìn Sư.
Dường như khi pháp sư [Lạc Quan] khởi tâm
động niệm, Kim Sơn Hoạt Phật đều
biết, trong khi nói năng, hoàn toàn nói toạc ra những
điều pháp sư đang suy nghĩ. Vị pháp sư ấy
nói: [Kim Sơn Hoạt Phật] thật sự có Tha Tâm Thông.
Quý vị thấy vị pháp sư ấy (Kim Sơn Hoạt
Phật) cả đời chẳng tắm rửa, cổ
áo đóng hờm đen thui, nhưng quý vị ngửi thấy
mùi hoa sen. Đích thân Ngài trông thấy. Pháp sư Chử Vân rất
hâm mộ, đến khắp nơi hỏi dò chuyện Kim
Sơn Hoạt Phật rồi viết thành sách. Về sau,
pháp sư Lạc Quan cũng viết một bộ[9]. Pháp sư Lạc Quan đích thân ở cùng Ngài chừng bốn tháng, hiểu Ngài khá
rõ. Quả thật, qua cuộc sống thường nhật
của Ngài có thể thấy những năng lực ấy,
Ngài có Tha Tâm Thông.
Túc
Mạng: Túc Mạng là biết một hai đời quá khứ. Đức Phật nói A La Hán có
thể biết năm trăm đời quá khứ, năm
trăm đời vị lai. Ngài có thể biết quá khứ,
vị lai, đấy là Túc Mạng Thông. Thần Túc Thông: Thần
Túc là biến hóa đủ mọi lẽ, Ngài có thể phân
thân, có thể biến hóa, giống như trong tiểu thuyết
Tôn Ngộ Không có bảy mươi hai phép biến hóa, nhưng
trên thực tế, A La Hán không chỉ có bảy mươi
hai phép biến hóa; so với A La Hán, Tôn Ngộ Không thua kém
quá xa. Lậu Tận là đoạn Kiến Tư phiền
não, tức là chứng quả A La Hán, đó là Tiểu Thừa.
Đây là nêu ra [các thứ] thần thông, thông thường
kinh Phật nói sáu thứ thần thông. Trong sáu thứ thần
thông ấy, trừ Lậu Tận Thông ra, các tôn giáo khác tại
Ấn Độ, thậm chí các học phái đều tu Thiền
Định, ít nhiều đều đạt được
[năm món thần thông ấy]. Vì thế, đức Phật
xuất thế ở nơi nào, chúng ta có thể tưởng
tượng bèn biết [trình độ văn hóa và tôn giáo
nơi ấy] phải là như vậy. Tại Trung Quốc,
tuy học thuật cũng rất phát triển, nhưng
người Hoa chẳng chú trọng tu Thiền Định.
Cũng tu, cũng nói tới chuyện “tu thân dưỡng
tánh”, nhưng chưa đạt tới trình độ ấy,
chưa phát hiện thần thông. Trong Phật môn bảo “tu
Định, nhưng chưa đắc Định”. Người
ấy tu Định, nhưng công phu chưa tới mức.
Nếu công phu đạt tới mức, thần thông sẽ
hiện tiền; công phu ấy nhất định phải
là từ đoạn phiền não mà có!
Quý vị
thấy trong Phật môn, từ phần trước của
bản kinh này, chúng ta đã học: Kiến Tư phiền
não là chấp trước, chúng ta buông xuống chấp
trước đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, tâm đạt được
thanh tịnh, tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh,
sáu thứ thần thông đều trọn đủ, đều
xuất hiện, đấy là cảnh giới của A La
Hán. Chứng đắc A La Hán, lục đạo luân hồi
chẳng còn nữa. Vì thế, các tôn giáo tại Ấn Độ
tuy tu Định, có thể đạt tới Phi Tưởng
Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, tức là chỗ cao nhất
trong lục đạo, vẫn chưa thoát khỏi lục
đạo, nguyên nhân là do họ chẳng đoạn tập
khí phiền não. Nếu thật sự đoạn trừ, sẽ
vượt thoát. Do vậy, A La Hán tu Đệ Cửu Định.
Quý vị thấy Tứ Thiền Bát Định, Thiền
Định thế gian chỉ đạt tới chỗ
này, Định thứ chín là vượt thoát, tức là
vượt thoát lục đạo luân hồi, trong Phật
pháp mới được coi là tu hành đắc Tiểu Quả.
Tiểu Quả là A La Hán hay Bích Chi Phật, vượt thoát
tam giới, vượt khỏi lục đạo. Lại
lên cao hơn nữa, phải đoạn trừ Trần Sa
phiền não, kinh Hoa Nghiêm gọi Trần Sa phiền não là
phân biệt. Cũng tức là chẳng phân biệt hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, phân biệt
vi tế hơn chấp trước, điều này cũng
phải đoạn trừ, quý vị nâng cao lên thành Bồ
Tát, Phật, [ở đây] là Bồ Tát, Phật trong mười
pháp giới, đạt tới cảnh giới ấy. Tu
hành trong cảnh giới ấy, phải buông căn bản
vô minh xuống, căn bản vô minh là khởi tâm động
niệm, vi tế cùng cực nhất. Quý vị nhìn vào cuộc
đối thoại giữa đức Thế Tôn và Di Lặc
Bồ Tát sẽ thấu hiểu tin tức ấy, vi tế
đến mức độ nào? Trong một cái khảy ngón
tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, buông niệm
vi tế xuống, quý vị sẽ thành Phật, bèn vượt
thoát mười pháp giới. Cảnh giới gì hiện tiền?
Cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai,
người bình phàm chúng ta gọi [cảnh giới ấy]
là Nhất Chân pháp giới, hiện tiền.
Chư vị
phải biết: Mười pháp giới có sanh, có diệt,
trong Nhất Chân pháp giới không có sanh diệt, cảnh giới
ấy hiện tiền, theo kinh Hoa Nghiêm là từ Sơ Trụ
trở lên, tức là từ Sơ Trụ
của Viên Giáo trở lên. Để đạt đến
quả vị rốt ráo còn có bốn mươi hai địa
vị là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu
Giác, còn có bốn mươi hai địa vị. Khi chúng ta
học Hoa Nghiêm sẽ hiểu rõ, khởi tâm động niệm
còn chẳng có, lấy đâu ra các đẳng cấp?
Bốn mươi hai tầng cấp lại do đâu mà có?
Có bốn mươi hai tầng cấp sẽ chẳng bình
đẳng, chẳng bình đẳng sẽ không ra khỏi
mười pháp giới. Do vậy, chúng ta thật sự hiểu
rõ, thật sự là pháp giới bình đẳng, chẳng có
giai cấp. Vì sao không có giai cấp mà đức Thế Tôn
phải nói bốn mươi hai địa vị? Đấy
là để cho chúng ta hiểu rõ tập khí vô thỉ vô minh
chưa đoạn. Những vị tổ sư đại
đức trong quá khứ khi giảng kinh Đại Thừa
đã nói rất tỉ mỉ: Quả thật các vị ấy
(hàng Pháp Thân đại sĩ) đã thật sự đoạn
[phiền não], nhưng chưa đoạn tập khí. Tập
khí có trở ngại Sự hay không? Chẳng trở ngại
Sự, tập khí Vô Minh chẳng trở ngại Sự. Tập
khí Kiến Tư trở ngại Sự, sẽ tạo nghiệp;
tập khí Trần Sa tương đối nhẹ hơn một
chút, nhưng tập khí Vô Minh chẳng trở ngại Sự.
Vì thế, có thể nói là trí huệ, thần thông, đạo
lực của các Ngài chẳng khác gì Phật quả rốt
ráo viên mãn. Từ kinh Đại Thừa, chúng ta thấy các
Ngài có thể đối với chúng sanh hữu duyên trong
mười phương các cõi Phật khắp pháp giới
tận hư không giới, hễ chúng sanh có cảm, các Ngài
bèn có thể ứng, nên dùng thân gì để độ
được bèn hiện thân ấy: Nên dùng thân Phật
để đắc độ bèn hiện thân Phật, nên
dùng thân Bồ Tát đắc độ bèn hiện thân Bồ
Tát, cho đến nên dùng hoa, cỏ, cây cối để
độ bèn hiện thân hoa, cỏ, cây cối, thật sự
đắc đại tự tại! Năng lực ứng
hóa bình đẳng, viên mãn, chẳng có mảy may sai biệt,
đó là sáu thứ bản năng được khôi phục
viên mãn. Chúng ta phải liễu giải thần thông, chẳng
có gì hiếm hoi, lạ lùng! Chúng là bản năng, bị
nghiệp chướng của chính chúng ta ngăn trở
[nên chẳng thể hiển hiện]. Hễ nghiệp
chướng tiêu trừ, năng lực bèn khôi phục.
Tiếp
theo đó là giải thích đơn giản ý nghĩa của
Thần và Thông. Thần là thần kỳ, chẳng thể
lường, vượt ngoài kiến thức thông thường
của chúng ta. Ngày hôm qua tôi đã phân tích cùng quý vị, thông
đạt chân tướng của vạn sự vạn vật,
kinh Phật gọi [chân tướng ấy] là “chư pháp Thật Tướng”,
thông đạt chư pháp Thật Tướng sẽ
được gọi là Thần, người Trung Quốc
gọi hạng người ấy là Thánh. Thần và Thánh có
cùng một ý nghĩa, đều là “thông đạt, hiểu
rõ”. Tiếp đó, Thông là chẳng có chướng ngại,
Thần là thông đạt chẳng bị chướng ngại.
Tiếp đó, “Đạt giả,
Gia Tường viết: Đạt giả, ngôn chứng”,
(“Đạt”, ngài Gia Tường bảo: “Đạt ý nói
là chứng”), có nghĩa là chứng. “Chứng Lục Thông, Tam Minh đẳng thị dã”
(chính là chứng Lục Thông, Tam Minh v.v...). Tam Minh vẫn là
Lục Thông, Tam Minh là Thiên Nhãn Minh, Túc Mạng Minh, và Lậu
Tận Minh, ba thứ năng lực ấy đã đạt
tới rốt ráo viên mãn. Trên thực tế, ba thứ này
đạt tới rốt ráo viên mãn thì cả sáu thứ kia đều
đạt đến rốt ráo viên mãn, tại Như Lai quả
địa gọi là Tam Minh, tại [địa vị] Bồ
Tát gọi là Lục Thông, cũng là do trình độ công phu
[sai khác] mà có danh xưng khác biệt.
“A Nan đương thời, tuy vị đắc Lậu
Tận” (tuy thuở ấy
ngài A Nan chưa đắc Lậu Tận). Lúc đức Thế
Tôn tại thế, ngài A Nan thị hiện làm Tu Đà Hoàn,
chỉ chứng Sơ Quả. Vì sao? Vì đa văn, chuộng
đa văn, cũng có nghĩa là: Công phu định lực
còn yếu kém một chút. Những đồng học khác
đều là chuyên tâm tu hành, đều có thể chứng từ
Tứ Quả trở lên, ngài A Nan vẫn mang thân phận Tu
Đà Hoàn; vì sao cũng có thể gọi là “đại
thánh?” Ở đây, tuy Ngài chưa đắc Lậu Tận,
“đản dĩ
đương cơ, ưng tu tịnh liệt” (do là đương cơ nên cũng xếp
vào số các vị [đại thánh]). Vì A Nan sẽ
truyền giáo pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật. Có hai người
truyền pháp của đức Thế Tôn: Tôn giả Đại
Ca Diếp truyền Thiền, truyền Tông Môn, A Nan truyền
Giáo Hạ, đa văn đệ nhất. Trên thực tế
[hai Ngài] đều là đại quyền thị hiện,
đại quyền là Pháp Thân Bồ Tát, thậm chí là cổ
Phật tái lai. Một đức Phật xuất thế,
ngàn đức Phật ủng hộ. Trên sân khấu, các
Ngài mang thân phận khác nhau, nhưng sau sân khấu đều
là chư Phật Như Lai lỗi lạc. Do vậy,
cũng xếp [ngài A Nan] vào hàng đại thánh.
Tiếp đó, trong Tịnh
Ảnh Sớ có giải thích: “A
Nan tăng thượng lợi căn, tuy cư học
địa, vị đắc Vô Học quả vị” (A Nan lợi
căn tăng thượng, tuy còn ở địa vị Hữu
Học, chưa đạt được quả vị
Vô Học). Vô Học là A La Hán, đấy là Tứ Quả,
Tứ Hướng trong Tiểu Thừa, quả vị A La
Hán là Vô Học, đã tốt nghiệp. Ngài A Nan mới là
Sơ Quả, trong tám tầng cấp, Sơ Quả thuộc
loại thứ hai. “Nhi thành vô
thượng thắng diệu công đức, cố viết
đại thánh” (nhưng thành tựu công đức vô thượng thắng diệu,
nên gọi là Ðại Thánh). Ngài là bậc lợi căn
tăng thượng, người Hoa nói là “nghe một, ngộ cả ngàn”,
trí nhớ và sức lý giải vô cùng mạnh mẽ, không chỉ
các vị A La Hán dưới tòa của đức Thế Tôn
chẳng bằng Ngài, mà rất nhiều vị Quyền Giáo
Bồ Tát cũng chẳng bằng, đều kém hơn.
Pháp Thân đại sĩ chẳng cần phải nói nữa,
Quyền Giáo Bồ Tát đều chẳng bằng Ngài. Vì thế,
Ngài cũng được xếp vào đây, gọi là “đại
thánh”. “Ư thần thông
trung, liễu giải tất cánh” (đã hiểu biết
trọn vẹn thần thông), phải đặc biệt mở
dấu ngoặc ở đây: “Liễu giải tất cánh”
là liễu giải triệt để, nên gọi là “dĩ đạt”. “Thị cố A Nan diệc đắc
danh liệt nhất thiết đại thánh, thần thông
dĩ đạt” (Do vậy, ngài A Nan
cũng được nêu tên trong số “nhất
thiết đại thánh thần thông dĩ đạt”).
Vì thế, đây là lời tán thán, ngài A Nan cũng được
kể trong ấy. Đây là giới thiệu đơn giản,
tán thán đức hạnh [của Thanh Văn chúng].
Tiếp đó, liệt
kê năm vị tôn giả, năm vị này đều có
tánh chất đại biểu. Ý nghĩa được
bao hàm [trong danh hiệu của] mỗi vị đều vô
cùng sâu. Sau khi hiểu rõ, mới biết những người
được kể tên trong kinh điển nhất định
là để biểu thị sự thù thắng của pháp hội
ấy. Giống như hội nghị trong thế gian, quý vị
thấy những ai tham gia hội nghị bèn hiểu rõ hội
nghị ấy có tánh chất gì, họ đang thảo luận
vấn đề gì. Xin quý vị hãy nhìn vào những vị ấy,
thật sự liễu giải, biết bộ kinh này đại
biểu điều gì, bàn luận những gì. Trên thực tế,
những vị đệ tử ấy hội nào của
đức Thế Tôn cũng tham gia, vì sao khi kết tập
phải nhắc đến danh hiệu vị này, mà chẳng
nhắc tới vị kia? Biểu thị pháp; dụng ý ở
chỗ này. “Kỳ danh viết,
tôn giả Kiều Trần Như” (Tên
các Ngài là: tôn giả Kiều Trần Như), đây là
vị thứ nhất. “Tôn giả”
là văn tự Trung Quốc, tiếng Phạn là A Lê Da
(Ārya), A Lê Da dịch sang nghĩa tiếng Hán là: “Thánh giả, tôn giả, vị
trí đức cụ tôn giả, nãi A La Hán chi tôn xưng”
(Thánh Giả, Tôn Giả, tức là bậc
trí và đức đầy đủ đáng tôn trọng,
cũng là tiếng tôn xưng bậc A La Hán). Hiện
thời, ở Trung Quốc cũng có thói quen xưng hô
như vậy, tại Trung Quốc Đại Lục rất
phổ biến, tôn kính người nào đó thì [thêm từ
ngữ] “đáng tôn kính” [vào sau tên người đó], đấy
chính là “tôn giả”, đây là một cách xưng hô tôn kính nhất.
Tại Trung Quốc, rất nhiều từ ngữ
được dùng trong đàm thoại vốn phát xuất
từ kinh Phật. Vì vậy, trước kia, cụ Triệu
Phác Sơ thường nói: “Nếu
người Trung Quốc không dùng đến Phật giáo thì
nói năng cũng chẳng được!” Câu nói ấy
rất có lý, quý vị thấy rất nhiều ngôn từ
trong đàm thoại toàn bộ đều phát xuất từ
kinh Phật. “Tôn kính” là chữ
phát xuất từ “tôn giả”
trong kinh Phật. Có đức đáng tôn trọng nên nói là
tôn giả, đấy là bậc có đạo đức, có
địa vị. “Hội Sớ
viết: Tôn vị tôn quý, hữu đức khả quý, cố
viết Tôn Giả” (Sách Hội Sớ giảng: “Tôn là tôn quý, có đức
đáng quý, nên gọi là Tôn Giả”), nhằm giải
thích hai chữ ấy có nghĩa là người ấy đức
hạnh, học vấn, địa vị, cống hiến
cũng đều có điểm đặc thù, Vì thế,
được đại chúng trong xã hội gọi là “tôn
giả”, nghĩa là đáng tôn kính.
Tiếp
đó, nói về tên của các Ngài:
“Kiều Trần Như Phạn văn toàn danh, tác A Nhã Kiều
Trần Như. A Nhã thị danh, Kiều Trần Như thị
tánh” (Kiều Trần Như: Tên gọi đầy đủ
trong tiếng Phạn là A Nhã Kiều Trần Như
(Ājñātakaundinya). A Nhã là tên, Kiều Trần Như là họ).
Họ ấy được dịch ra [tiếng Hán] sẽ
là Liễu Bổn Tế, hoặc Tri Bổn Tế.
Đơn giản hơn một chút [sẽ dịch] là
Dĩ Tri hoặc Vô Tri, có mấy ý nghĩa ấy. Lão cư
sĩ rất dụng tâm, nhằm thuận tiện cho chúng
ta, cụ đã giải thích chữ Vô Tri: “Vô Tri chi nghĩa, phi vô sở tri, thị tri Vô chi
nghĩa” (Vô Tri không có nghĩa là chẳng
biết gì, mà có nghĩa là biết được cái Không).
Đối với ý nghĩa này, chắc kẻ sơ học
vẫn chẳng hiểu rõ lắm. Kinh Bát Nhã dạy: “Bát Nhã vô tri, không gì chẳng biết”,
Vô Tri là Căn Bản Trí, không gì chẳng biết là Hậu
Đắc Trí. Vô Tri là Căn Bản Trí, tức là biết
Vô. Ngài là người thứ nhất khai ngộ, chứng A
La Hán sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành đạo. Kinh Niết
Bàn có nhắc tới câu chuyện vua Ca Lợi cắt chặt
thân thể. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật tu Nhẫn
Nhục Ba La Mật, một mực tu hành, người ta
thường gọi Ngài là Nhẫn Nhục tiên nhân. Một
hôm, gặp vua Ca Lợi. Ca Lợi (Kalingarāja) là tiếng
Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Bạo Ngược,
là một ông vua hung bạo, chẳng phải là một ông vua tốt. [Nhẫn Nhục tiên nhân] gặp
phải một người như thế, bị nhà vua cắt
chặt thân thể. Vua hỏi tiên nhân: “Nhà ngươi sống
trong hang núi, tu gì vậy?” Tiên nhân nói: “Tu Nhẫn Nhục”.
Được lắm, ta coi thử ngươi có nhẫn
nổi hay không? Chặt ngươi một đao, có thể
nhẫn hay không? Nhẫn được! Lại chặt một
nhát nữa, một mực xử tử lăng trì tiên nhân.
Vua Ca Lợi nói: “Thử coi ngươi còn sanh lòng tức giận
hay chăng? Có oán hận hay không?” “Chẳng oán hận”. Cuối
cùng, trước khi chết, [tiên nhân] bảo vua Ca Lợi:
“Trong tương lai, tôi thành Phật, người tôi sẽ
độ đầu tiên là bệ hạ”. Nhẫn Nhục
tiên nhân là Thích Ca Mâu Ni Phật, tôn giả Kiều Trần
Như là vua Ca Lợi thuở ấy. Nói sao làm vậy,
đúng là người thứ nhất được độ
là tôn giả. Vì thế, Ngài là đệ tử đầu
tiên của đức Thế Tôn, là người thành tựu
đầu tiên. Điều này đại biểu điều
gì? Đại biểu bộ kinh này là bộ kinh bậc nhất
của Thích Ca Mâu Ni Phật, nương theo bộ kinh này tu
hành sẽ là đệ tử bậc nhất của Phật
Thích Ca, biểu thị ý nghĩa ấy. Pháp môn này là pháp môn
bậc nhất để Thích Ca Mâu Ni Phật phổ độ
chúng sanh, nên xếp ngài Kiều Trần Như lên đầu.
Các vị thấy rất nhiều kinh điển có nêu tên
ngài Kiều Trần Như đầu tiên hay không? Chẳng
có! Chỉ có kinh Vô Lượng Thọ kinh xếp tên Ngài vào
đây, chẳng phải là chuyện dễ dàng!
Tri Vô là
thật sự liễu giải chư pháp Thật Tướng,
đúng như kinh Đại Bát Nhã đã nói: “Hết thảy các pháp vô sở hữu,
rốt ráo không, chẳng thể được”. Đó
là Căn Bản Trí. Thật sự hiểu rõ, khẳng
định, quý vị nói Ngài còn có gì chẳng thể buông xuống?
Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy
đều buông xuống sẽ chứng quả, chứng quả
gì? Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thành Phật. Nếu
thành Phật mà tập khí còn chưa đoạn hết,
Thiên Thai đại sư gọi quả vị Phật ấy
là Phần Chứng Tức Phật, chưa phải là viên
mãn Phật, mà là Phần Chứng Tức Phật. Xét theo Lý,
Phần Chứng Tức Phật và viên mãn Phật có sai biệt
do tập khí phiền não chưa đoạn trọn vẹn,
nhưng về mặt tướng, mặt Sự, chẳng
có sai biệt mảy may. Vì tập khí chẳng phải là Kiến
Tư phiền não, chẳng phải là Trần Sa phiền
não. Tập khí Kiến Tư và Trần Sa phiền não có tác dụng;
tập khí vô minh gọi là khởi tâm động niệm, tập
khí vô minh chẳng trở ngại Sự, chẳng hề
chướng ngại tự hành, hóa tha, cho nên Ngài có thể
hiện thân khắp pháp giới.
Trong Tịnh
Ảnh Sớ nói: A là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang
tiếng Hán là Vô. Quý vị thấy A Di Đà Phật, A là Vô,
Di Đà là Lượng, Phật là Giác, hoặc dịch là
Trí. Danh hiệu này chẳng phải là không thể dịch
sang tiếng Hán, nhưng do tôn trọng nên không dịch. Do
bao hàm nhiều nghĩa nên không dịch, nó có hai ý nghĩa,
nên vẫn phải dịch âm rồi chú giải thêm. “Nhã chi ngôn Trí” (Nhã là Trí), dịch
sang nghĩa tiếng Hán là Trí. Hợp [hai chữ A và Nhã] lại
là Vô Trí. Vô Trí nghĩa là gì? “Chứng
vô thành trí”, tức là vô sở hữu trí, thật sự
liễu giải hết thảy các pháp vô sở hữu, “cố danh Vô Trí” (nên gọi là
Vô Trí). “Vô, thị nhất thiết
chư pháp bổn tánh” (Vô là bổn tánh của hết thảy
các pháp), cho nên “danh vi Bổn Tế”
(gọi là Bổn Tế). Bổn Tế là bổn tánh. Trong
giáo pháp Đại Thừa, chúng ta học bổn tánh đã
nhiều năm ngần ấy, tuy chưa phải là cảnh
giới của chính mình, nhưng nghe đức Phật giảng
trong kinh, nghe nhiều lượt, cũng biết một
hai điều, có thể nói rõ ràng, minh bạch chuyện
này, tuy chưa phải là cảnh giới của chính mình, vì
sao? Chưa buông khởi tâm động niệm xuống.
Trong kinh giáo Đại Thừa, đức Phật thường
giảng: “Phàm những gì có hình
tướng đều là hư vọng”, kinh Kim Cang dạy:
“Hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương,
cũng như chớp, hãy nên quán như thế”. Đó là
Liễu Bổn Tế, Bổn Tế là bổn tánh, là chân
tâm. Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta về y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”,
quý vị có thể tham thấu suốt hai câu ấy, tâm sẽ
định. Hết thảy các pháp do tâm hiện, do tự
tánh hiện, mà cũng do Bổn Tế hiện.
Bổn Tế,
bổn tánh, chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng
phải là tinh thần, hiện tượng gì cũng đều
không có, nhưng nó có thể sanh, có thể hiện. Thuở ấy,
Huệ Năng đại sư kiến tánh, đã nói
năm câu nhằm hình dung tình trạng kiến tánh,
được hòa thượng Ngũ Tổ Nhẫn chứng
minh. [Trong đó], câu thứ ba là “nào
ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”. Câu
cuối cùng là “nào ngờ tự
tánh, có thể sanh ra vạn pháp”. Gộp hai câu này lại
để xem, khi tự tánh chẳng khởi tác dụng, thứ
gì cũng đều không có, quý vị chẳng thể nói nó
là Không, vì thứ gì nó cũng trọn đủ. Thứ gì
cũng trọn đủ, nhưng đều chẳng hiện.
Khi nó khởi tác dụng bèn có thể sanh ra vạn pháp. Vì thế,
khi nó chẳng hiện, tức là ẩn, khi hiện là hiển
lộ. Ẩn và hiển chẳng hai. Khi ẩn, chẳng thể
nói nó là Vô, khi hiện tướng, nó có thể sanh ra vạn
pháp, chẳng thể nói là nó Hữu. Giống như hiện
thời chúng ta nhìn vào màn hình TV, quý vị thấy màn hình TV hễ
vặn trúng băng tần, tướng
bèn hiện tiền. Khi tướng hiện tiền, chẳng
thể nói nó là Có. Khi tắt máy đi, chẳng còn hiện
tướng, chẳng thể nói nó là Không. Chúng ta dùng tỷ
dụ này, tỷ dụ này rất thô, dễ liễu giải,
tự tánh giống như vậy đó. Vì sao nó có thể
hiện? Điều này được kinh Phật giảng
rất nhiều, kinh Đại Thừa thường nói: “Nhất niệm bất giác bèn có
vô minh”, vô minh là gì? Vô minh là A Lại Da. A Lại Da do
đâu mà có? Nhất niệm bất giác. Bổn Tế là từ
trong bổn tánh dấy lên A Lại Da, A Lại Da chẳng
có lý do gì, quý vị cũng chẳng thể hỏi vì sao một
niệm bất giác? Vì sao có A Lại Da? Chính quý vị hãy
khéo suy nghĩ, quý vị hỏi câu ấy, phân biệt nổi
lên, chấp trước cũng dấy lên, quý vị càng mê
sâu hơn. Làm như thế nào mới có thể liễu Bổn
Tế? Liễu (了) là hiểu
rõ. Vì thế, các nhà khoa học chẳng thể sánh bằng
các vị đại thánh này. Những vị đại
thánh này có thể kiến tánh, khoa học gia chẳng thể
kiến tánh. Vì sao? Họ biết hỏi, phát hiện: “Vì
sao có cái này, vì sao có cái kia?”, thêm vô đó bao nhiêu dấu hỏi.
Quý vị thấy từ khởi tâm động niệm biến
thành phân biệt, phân biệt do khởi tâm động niệm
mà có, chấp trước do phân biệt mà có, càng bị hãm
sâu hơn.
Trong kinh
Đại Thừa, đức Phật đã nói chuyện
này từ ba ngàn năm trước, Ngài giảng cho chúng ta
biết tám thức, giảng về tác dụng của mỗi
thức. Nói theo cách bây giờ, A Lại Da là ký ức, vì sao
chúng ta có thể nhớ được những chuyện
đã từng trải qua? Có nhớ được chuyện
trong đời quá khứ hay không? Vẫn nhớ! Vì sao biết
quý vị nhớ được? Quý vị thấy hiện
thời thuật thôi miên ở ngoại quốc có thể
làm cho một người trở về khá nhiều đời
trong quá khứ. Tôi đọc một báo cáo, nói chung là rất
khó có, người [được thôi miên] ấy có thể
trở lại hơn tám mươi đời trong quá khứ,
tình hình mỗi đời đều biết rõ ràng. Tám
mươi đời là trở lại hơn bốn ngàn
năm trước, còn ở trong hang động, chưa có
nhà ở, người ấy có thể nói ra tình hình cuộc
sống lúc đó. Vì sao người ấy có thể nhớ
được? A Lại Da là kho tài liệu, những chuyện
chúng ta đã trải qua trong đời đời kiếp
kiếp, tài liệu đều được gìn giữ
trong đó. Quý vị thấy thôi miên có thể lôi ra các tài liệu.
“Tái lai” là công phu định lực bình thường, trong
Thiền Định có thể lấy ra toàn bộ những
ký ức từ đời đời kiếp kiếp trong
quá khứ. A Lại Da là ký ức, Mạt Na là chấp
trước, Ý Thức là phân biệt, năm thức trước
chỉ có tác dụng chiếu kiến, chứ không có tác dụng
nào khác. Chúng ta mắt thấy, tai nghe, giống như máy chụp
ảnh, mắt giống như máy chụp ảnh, thu vào sắc
tướng bên ngoài, tác dụng của nó ở chỗ này.
Nhãn Thức không phân biệt, cũng chẳng chấp
trước. Thức thứ sáu, tức Ý Thức, thấy
như thế nào? Thức thứ sáu, tức Ý Thức, chẳng
thấy bên ngoài, mà thấy hình ảnh được soi chiếu
bởi Nhãn Thức. Thức thứ sáu, tức Ý Thức,
duyên theo Tướng Phần của Nhãn Thức. Tướng
Phần từ bên ngoài chiếu vào [Ý Thức], [Ý Thức
bèn] duyên theo Tướng Phần ấy, khởi lên phân biệt
nơi Tướng Phần. Thức thứ bảy lại
duyên theo Tướng Phần của thức thứ sáu, từ
Tướng Phần của thức thứ sáu mà khởi chấp
trước, hư vọng! [Thức thứ sáu và thứ bảy]
chẳng thật sự thấy cảnh giới bên ngoài, cảnh
giới bên ngoài chỉ có trong năm căn trước, tức
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, chúng là cảnh giới
Hiện Lượng.
Do vậy,
thức thứ sáu và thức thứ bảy là đối
tượng được duyên (sở duyên) bởi A Lại
Da. A Lại Da có cảnh giới Hiện Lượng, thức
thứ sáu và thức thứ bảy chẳng có cảnh giới
Hiện Lượng, chúng đúng là Tỷ Lượng,
đó là hư vọng. Quý vị thấy chúng khởi phân biệt,
khởi chấp trước nơi đó, há chẳng phải
là giống như chúng ta xem TV, từ hình tướng của
TV bèn dấy lên phân biệt, chấp trước, chẳng
phải là ở ngay nơi hiện trường (cảnh giới
thật sự). Khi nào có thể đạt đến hiện
trường? Chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính
Trí, quý vị sẽ thấy hiện trường. Khi quý vị
chưa chuyển thức thành trí thì quý vị chưa thấy
hiện trường, nay chúng ta ngỡ đó là hiện
trường, sai rồi, chẳng phải vậy! Chẳng
phải là hiện trường! Tâm Lý Học của Duy Thức
cao lắm, khoa Tâm Lý Học trong đại học hiện
thời đem so với Duy Thức sẽ thua kém quá xa. Duy
Thức giảng thật vi tế, giảng thật sự
có lý. Vì vậy, mỗi ngày chúng ta tạo nghiệp, quý vị
nói xem có phải là tạo nghiệp oan uổng lắm không?
Chẳng phải là hiện trường! Thật sự thấy
hiện trường, sẽ chẳng tạo nghiệp. Hiện
trường là cảnh giới gì? Quý vị trông thấy
chân tướng, trong kinh Phật nói “Tướng có, Tánh không, Sự có, Lý không”. Hết
sức khó có, phát hiện của các khoa học gia Lượng
Tử hiện thời ngày càng gần với giáo pháp Đại
Thừa, họ phát hiện ba tế tướng của A Lại
Da. Tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở, tám thức
có bốn phần, Tâm Sở cũng có bốn phần: Tự
Chứng Phần, Chứng Tự Chứng Phần, Tướng
Phần, và Kiến Phần. Đó kiến thức cơ bản
thông thường trong Phật pháp Đại, Tiểu Thừa,
quý vị chớ nên không biết. Nếu quý vị không biết,
sẽ chẳng có phương pháp nào tác quán, chẳng có cách
nào tu Chỉ Quán. Phương pháp tu hành Chỉ Quán
được kiến lập trên cơ sở này, quý vị
phải liễu giải chân tướng sự thật.
Hiện
thời, khoa học có thể hiểu rõ cuộc đàm thoại
giữa đức Thế Tôn và Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc
Bồ Tát đáp câu hỏi của đức Phật: “Tâm hữu sở niệm?”
(tâm có mấy niệm), phàm phu chúng ta dấy lên một niệm,
trong tâm dấy lên một niệm thì trong một niệm ấy
có bao nhiêu niệm vi tế hiển hiện? Trong niệm ấy
có mấy Tướng Phần, có mấy Kiến Phần?
Kiến Phần là thức, Tướng Phần là hình trạng,
chúng ta gọi nó là vật chất. Do vậy, Tướng
Phần là cảnh giới tướng, Kiến Phần là
chuyển tướng. Vì sao? Nó có thể chuyển biến,
“duy thức sở biến”
là nói về chuyển tướng, nó có thể biến. Di Lặc
Bồ Tát trả lời: “Trong
một cái khảy ngón tay, có ba mươi hai ức trăm
ngàn niệm”. Hiện thời khoa học dùng giây làm
đơn vị, tức là đối với thời gian
dùng giây làm đơn vị. Trong một giây, chúng ta có thể
khảy ngón tay mấy lần? Nói chung, tôi khảy vẫn
chưa đủ nhanh, tôi tin là có người khảy nhanh
hơn tôi. Tôi có thể khảy bốn lần, tôi tin
[người khác] có thể khảy đến năm lần.
Chúng ta tính ra, một cái khảy ngón tay là ba mươi hai ức
trăm ngàn niệm, tức là ba trăm hai mươi triệu
niệm. Nếu tính một giây có thể khảy năm lần,
sẽ là một ngàn sáu trăm triệu, đơn vị là
triệu. Một giây có một ngàn sáu trăm triệu niệm
vi tế. Niệm ấy xuất hiện gì? Xuất hiện
hiện tượng vật chất, và cũng xuất hiện
hiện tượng tinh thần, hiện tượng tinh
thần và hiện tượng vật chất vĩnh viễn
chẳng tách rời. Khoa học gia phát hiện, họ nói hiện
tượng vật chất là từ Không sanh ra Có, tốc
độ quá nhanh, giống như vừa sanh ra bèn tiêu diệt
ngay lập tức. Trước mắt, chúng ta thấy hiện
tượng vật chất là gì? Là huyễn tướng do
ý niệm liên tục tích lũy phát sanh. Phát hiện của
các nhà Lượng Tử Lực Học hiện đại
và lời giảng của Di Lặc Bồ Tát đúng là “không
bàn định mà cùng phù hợp”. Đức Phật dạy:
“Phàm những gì có hình tướng
đều là hư vọng” là nói tới chuyện này, giống
như chúng ta vặn đúng một băng tần của
TV, trên màn hình bèn hiện tướng, tình trạng là như
vậy đó. Quý vị thấy tướng được
hiện trên màn hình là do những điểm sáng nhỏ liên
kết thành, hợp thành, chẳng thật. Mỗi điểm
sáng nhỏ chẳng phải là giống như Di Lặc Bồ
Tát đã giảng, trong một giây lóe sáng bao nhiêu lần? Một
ngàn sáu trăm triệu lượt, trong một giây [đã
là như vậy] thì nó có thật ở chỗ nào? Chúng ta hoa
mắt, lầm tưởng là chân thật, vẫn khởi
phân biệt, khởi chấp trước trong ấy rồi
tạo nghiệp, quý vị nói xem có oan uổng hay không?
Nhưng [chúng ta] chẳng biết những vị thánh giả
đã thấy rất rõ ràng: “Bản
thể chính là không, trọn chẳng thể được!”
Do vậy, quý vị có thể tán thưởng hiện
tượng, nhưng ngàn muôn phần đừng nên chấp
trước chúng, chớ khởi ý niệm khống chế,
chiếm hữu chúng, [nếu khống chế, chiếm hữu]
quý vị đã hoàn toàn trật lất rồi. Căn bản
là không có chuyện này!
Chúng ta phải
học theo chư Phật, Bồ Tát, phải biết nhìn những
hiện tượng ấy như thế nào? Chẳng phải
có, chẳng phải không, chẳng thể nói là nó có, cũng
chẳng thể nói là nó không có, giữ thái độ ấy,
quyết định chẳng chấp trước. Dùng tâm
thái gì? Dùng tâm thái thuần tịnh thuần thiện để
nhìn vũ trụ, vũ trụ hoàn toàn bảo trì hiện
tượng bình thường. Nói theo cách bây giờ, sự
bình thường ấy là lành mạnh nhất, viên mãn nhất,
tốt lành nhất. Người Trung Quốc nói “chỉ ư chí thiện”
(đạt tới tốt lành tột bậc), thuần tịnh, thuần
thiện là “chỉ ư chí thiện”.
Trong tôn giáo gọi “chỉ
ư chí thiện” là thiên đường, Phật môn gọi
nó là thế giới Hoa Tạng hay thế giới Cực Lạc.
Thật ra, thế giới Hoa Tạng, thế giới Cực
Lạc và chúng ta có gì khác nhau? Thưa quý vị, giống hệt,
chẳng có sai biệt một tí nào, nhưng trong sự giới
thiệu của đức Thế Tôn, sai biệt rất lớn.
Sai biệt do đâu mà có? Sai biệt là do tâm tưởng
khác nhau, nên sai biệt to lớn. Trong tâm quý vị tưởng
thiện, thứ gì trong thế giới này cũng đều
tốt đẹp. Trong tâm quý vị nghĩ đến tham,
sân, si, mạn, nghĩ đến tự tư tự lợi,
thị phi, nhân ngã, chẳng có gì trong thế giới này là
thiện. Trong kinh, đức Phật đã giảng rất
hay, tướng tùy tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm, ý niệm
của quý vị có thể chuyển biến thế giới.
Tôi nghĩ dăm ba năm nữa, Lượng Tử Lực
Học sẽ phổ biến khắp cả thế giới,
sau khi đại chúng đều có thể tiếp nhận,
địa cầu là nơi chúng ta cư trụ sẽ biến
đổi, vì sao? Con người liễu giải, hiểu
rõ chân tướng sự thật, chỉ cần ý niệm
của chúng ta là thiện, tất cả tai nạn trên địa
cầu đều không có, vì nó là cảnh giới, cảnh
giới do tâm hiện, thức biến.
Vì sao
trước đây hoàn cảnh tốt đẹp như vậy,
sau khi khoa học phát triển, bèn có lắm tai nạn dường
ấy? Cũng vì trước kia, tâm con người thuần
hậu, dục vọng rất thấp. Thích Ca Mâu Ni Phật
biểu diễn cho chúng ta thấy Ngài gần như không có
dục vọng, suốt đời sống một cuộc
đời đơn giản nhất, ba y, một bát, tối
nghỉ dưới cội cây, giữa trưa ăn một
bữa, cả đời lão nhân gia đã làm cho chúng ta thấy.
Thứ gì cũng đều không có, thứ gì Ngài cũng chẳng
cần, mỗi ngày giảng kinh, giáo học, mang thân phận
gì? Thầy, nói theo cách chúng ta, Ngài mang chức nghiệp giáo
sư. Ba mươi tuổi khai ngộ, sau khi khai ngộ
bèn dạy học, chẳng gián đoạn ngày nào, bảy
mươi chín tuổi viên tịch. Vì thế, trong kinh
thường nói lão nhân gia cả đời giảng kinh
hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi
chín năm. Hội giảng kinh giống như hiện thời
chúng ta mở khóa học, Ngài tổ chức các khóa học
hơn ba trăm lần, thời gian có lúc dài, lúc ngắn, nhỏ
thì là mấy người, [giảng] mấy giờ, lớn
là mấy năm, thảo luận một chuyên đề lớn.
Pháp hội lớn hay nhỏ như vậy rất nhiều,
Ngài thị hiện cho chúng ta, chẳng chấp trước
mảy may, hết sức cởi mở. Có những quốc
vương hay đại thần có hoa viên, có biệt thự,
thỉnh Ngài đến đó, trụ ở nơi ấy giảng
kinh, Ngài cũng nhận lời. Ngài cũng chẳng nhất
định cần [phải có nơi chốn u tịch
để giảng dạy], ta nhất định phải
trụ trên núi, chẳng phải vậy, tùy duyên, vô cùng tùy
thuận, hòa đồng. Kinh giảng xong, nơi khác có
người mời đi, Ngài bèn đến nơi khác. Sống
động, hoạt bát, tự tại lắm, chẳng có mảy
may trói buộc gì!
Chúng ta phải
quan sát sâu xa, liễu giải, học tập những điều
ấy. Bởi lẽ, lão nhân gia thật sự tùy duyên tự
tại, mảy may dục vọng đều chẳng có. Vì
sao? Ngài thật sự đạt được vô ngã; vì thế,
vô ngã mới là thật sự nhập môn Phật giáo. Quý vị
thấy Tu Đà Hoàn đã phá Thân Kiến, chẳng còn
nghĩ thân là ta. Phá Biên Kiến, phá Biên Kiến sẽ chẳng
thấy đối lập, Biên (邊) là nhị biên (hai bên), tức đối lập.
Đối lập mới có mâu thuẫn, mới có xung đột.
Do vậy, những điều ấy thảy đều
không có. Không có thành kiến, Kiến Thủ Kiến và Giới
Thủ Kiến đều thuộc về thành kiến,
thành kiến được nói thành hai loại. Đức
Phật giảng sâu hơn một chút, một là thành kiến
nơi nhân, hai là thành kiến nơi quả, hai thứ. Giới
Thủ Kiến là thành kiến nơi nhân. Kiến Thủ Kiến
là thành kiến nơi quả. Loại cuối cùng là Tà Kiến,
tức cách nhìn sai lầm, nên gọi là Tà Kiến. Những
thứ ấy đều buông xuống hết, đều đoạn
sạch hết, sẽ chứng quả Tu Đà Hoàn. Trong
Đại Thừa, theo kinh Hoa Nghiêm, đó là địa vị
Sơ Tín Bồ Tát, chính là thánh nhân, mới nhập môn! Nhập
môn rất khó, sau khi nhập môn sẽ dễ dàng, đúng là
thuận buồm xuôi gió, từng bước tiến cao
hơn.
Thuở ấy,
lúc tôi mới học Phật, người xuất gia tôi
được tiếp xúc lần đầu tiên là
Chương Gia đại sư, tôi hướng về lão
nhân gia thỉnh giáo: “Tiên sinh Phương Đông Mỹ giới
thiệu Phật pháp cho con, nên con biết trong ấy có
đại học vấn, triết học cao cấp, có
phương pháp nào khiến cho chúng ta khế nhập rất
nhanh hay chăng?” Chương Gia đại sư bảo: “Thấy
thấu suốt, buông xuống, anh sẽ khế nhập!”
Đúng vậy, Ngài chẳng nói lời giả, ngày đầu
tiên đã giãi bày toàn bộ. Tôi học nhiều năm
như thế mới biết, từ sơ phát tâm cho đến
địa vị Như Lai, dùng công phu gì? Thấy thấu
suốt giúp buông xuống, buông xuống giúp thấy thấu
suốt. Hai thứ này giúp lẫn nhau thành tựu mãi cho
đến địa vị Như Lai. Bắt đầu từ
chỗ nào? Trước hết, bắt đầu từ
buông xuống, buông tự tư tự lợi xuống, buông
tiếng tăm, lợi dưỡng xuống, buông ngũ dục,
lục trần xuống, quý vị bắt đầu từ
chỗ ấy. Quý vị chẳng thực hiện từ chỗ
ấy, sẽ chẳng có cách nào thấy thấu suốt.
Sau khi thấy thấu suốt, nó sẽ giúp quý vị buông
xuống sâu hơn, đó là công phu giúp đỡ, thành tựu
lẫn nhau. Đấy là bí quyết trong Phật pháp, không
có gì khác, nói xuyên suốt, chẳng có tí ti hiếm hoi, lạ
lùng nào, siêu phàm nhập thánh! Hiện thời, các nhà khoa học
Lượng Tử nói hết thảy các pháp đều thuộc
về “trong Không sanh ra Có”, sanh rồi bèn diệt, sanh diệt
đồng thời, đấy là nói chúng ta đã hiểu
rõ Bổn Tế, nên gọi là Liễu Bổn Tế.
“Kiều Trần Như ư Thế
Tôn sơ chuyển pháp luân, độ ngũ tỳ-kheo thời,
thủ tiên ngộ đạo” (lúc đức Thế Tôn
chuyển pháp luân lần đầu tiên, độ năm tỳ-kheo,
ngài Kiều Trần Như ngộ đạo đầu
tiên). Ngài chứng quả A La Hán, người đầu
tiên chứng quả A La Hán chính là Ngài. Trong Pháp Hoa Văn Cú,
Pháp Hoa Văn Cú do Trí Giả đại sư soạn, có
nói: “Thị Thích Ca pháp trung
đệ nhất đệ tử” (là đệ tử
thứ nhất trong pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật), câu này
rất quan trọng. Trong kinh này, nếu đã ghi tên của
Ngài, tức là biểu thị pháp: Kinh này là kinh bậc nhất
để Phật Thích Ca độ chúng sanh, biểu thị
ý nghĩa ấy. “Tăng Nhất
A Hàm Kinh Đệ Tử phẩm trung, Phật xưng vi
chi: - Ngã Thanh Văn trung đệ nhất tỳ-kheo, khoan
nhân, bác thức, thiện năng khuyến hóa, tương
dưỡng thánh chúng, bất thất oai nghi” (Trong phẩm
Đệ Tử của kinh Tăng Nhất A Hàm, đức
Phật đã khen ngợi [ngài Kiều Trần Như]: “Tỳ-kheo
bậc nhất trong các Thanh Văn của ta, lòng nhân rộng
lớn, kiến thức rộng rãi, khéo khuyên răn, giáo
hóa, dẫn dắt bồi dưỡng thánh chúng, oai nghi chẳng
thiếu sót”). Đây là Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán tôn giả,
giống như Khổng lão phu tử tán thán những người
thành tựu trong các môn đệ, phu tử thường
khen ngợi Nhan Hồi. Điều khó có nhất của
Nhan Hồi là “bất nhị
quá” (chẳng tái phạm lầm lỗi), điều này
rất khó thực hiện, thật sự sám hối. [Ngài
Kiều Trần Như] là tỳ-kheo bậc nhất trong các
đệ tử Thanh Văn, là người chứng A La Hán
đầu tiên. “Khoan nhân”:
Khoan hồng, độ lượng, nhân từ, bác ái; lại
hiếu học. “Bác thức”
là hiếu học, chúng ta nói là tri thức uyên bác. “Thiện năng khuyến hóa”:
Ngài giáo học vô cùng thành công. Đệ tử Thích Ca Mâu Ni
Phật thuở ấy không có khoa học kỹ thuật hiện
đại, đức Phật muốn phổ độ
chúng sanh nhất định phải có các đệ tử
giúp sức. Những môn đệ hằng ngày đi khất
thực đều nhằm giáo hóa chúng sanh. Khi khất thực,
nhất định phải thuyết pháp
cho trai chủ, chẳng thể nào xin xong bèn bỏ đi, chẳng
có đạo lý ấy. Người ta dùng tài bố thí, bố
thí quý vị một bát cơm, người xuất gia báo
đền thí chủ bằng pháp bố thí. Nếu
người ta hỏi vấn đề gì, nhất định
quý vị phải giải đáp giúp người ấy. Lúc
chẳng có câu hỏi nào, quý vị phải biết quan sát
căn cơ, thuyết pháp cho người tức là “vô vấn
tự thuyết” (không hỏi mà tự nói), phải thuyết
pháp cho người ấy. Nếu chẳng có gì hết, thì
cuối cùng tối thiểu là phải chúc phước cho
người ấy, chúng ta nói là “kỳ đảo chúc
phước”, phải chúc phước cho thí chủ thì mới
có thể tiếp nhận sự cúng dường của
người ta. Chẳng nói tức là đã tiếp nhận
cúng dường suông, sau đó chẳng có gì hết, không thể
được! Vì thế, hễ gặp dịp bèn giáo dục,
giáo dục trọn khắp cõi đời.
Lời đức Phật
làm cách nào để truyền đến tai quần chúng,
khiến cho quần chúng nghe sự giáo hóa của Phật
bèn y pháp phụng hành? Kinh thường nói những vị
đệ tử ấy là một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người, kinh này nói có một vạn
hai ngàn vị tỳ-kheo, nhiều quá, giống như kinh
Pháp Hoa. Vì thế, quý vị hiểu thuở Phật Đà tại
thế, Phật giáo là gì? Là giáo dục, giáo dục chính cống!
Đức Phật chẳng thay đổi, mãi cho đến
khi Ngài viên tịch lúc bảy mươi chín tuổi, hoàn
toàn là giáo học, chúng ta phải biết điều này. Hiện
thời, Phật giáo biến thành tôn giáo, thế hệ chúng
ta những kẻ học trò đời sau, là kẻ đại
bất hiếu, cớ sao biến [giáo hóa] của thầy
thành tôn giáo và mê tín? Dựa vào điều này, chúng ta đáng
đọa địa ngục, lẽ nào chẳng có lỗi
đối với thầy? Vì thế, ngày hôm nay, chúng ta có sứ
mạng phải thay thầy đảo ngược tình thế,
xoay ngược lại cục diện bằng cách nào? Bản
thân chúng ta làm gương, chúng ta đi theo phương
hướng giáo dục của đức Phật, khiến
cho mọi người thấy chúng ta chẳng phải là
tôn giáo. Trong tôn giáo có thần, trong Phật giáo chẳng có thần.
Chúng tôi tiếp xúc rất nhiều tôn giáo, các tôn giáo đều
nói trong vũ trụ chỉ có một chân thần, chúng ta gọi
chân thần là bổn tánh, chân tâm là tự
tánh, vũ trụ do tâm hiện, thức biến. Họ nói
chân thần tạo ra vũ trụ, tạo ra vạn vật,
[còn Phật giáo bảo vạn vật do] tâm hiện, thức
biến, chúng ta nói với họ như vậy, họ
có thể tiếp nhận thì rất khó có. Vì thế, tôi hy vọng
các tín ngưỡng tôn giáo hãy khéo học tập giáo dục
tôn giáo. Dùng tiếng Hán để giải thích hai chữ Tôn
Giáo sẽ thấy hay tột bực. Tiếng ngoại quốc
truyền tới Trung Quốc, thuở ấy, người
Trung Quốc đúng là có trí huệ, học vấn, đức
hạnh, đã dùng hai chữ “tôn giáo” (宗教)[10]
để dịch [chữ Religion] rất hay! Phải giảng
chữ Tôn như thế nào? Quý vị tra tự điển
sẽ thấy nó có ba ý nghĩa: Chủ yếu, trọng yếu,
tôn sùng. Giáo là giáo dục, giáo học, giáo hóa. Hợp lại
để nhìn, tôn giáo sẽ trở thành gì? Giáo dục chủ
yếu, giáo học trọng yếu, giáo hóa đáng tôn sùng.
Chúng ta đem những ý nghĩa trong danh từ này để
nói rõ với các tôn giáo trên thế giới, chẳng có ai
không hoan hỷ.
Kinh chẳng phải
để cho quý vị tụng. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật
tại thế, chưa có kinh sách, chúng ta biết kinh có từ
lúc nào? Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật vãng sanh, các môn đệ
trong quá khứ đã từng nghe thầy giáo huấn, ghi
chép lại theo trí nhớ thành văn tự, lưu truyền
cho hậu thế, đấy là kinh điển. Kinh điển
do vậy mà có! Thuở ấy, thầy dạy học toàn là
nói miệng, ngay cả bản thảo bài giảng cũng
không có, đại cương cũng không có. Quý vị nghe
hiểu rõ ràng, thông suốt, phải làm theo, phải thực
hiện, y giáo phụng hành. Cuối mỗi bài giảng
đều là “y giáo phụng hành”, hoặc “tín thọ
phụng hành” (tin nhận vâng làm), thường dùng bốn
chữ ấy, tin tưởng thầy chẳng hoài nghi, hoàn
toàn tiếp nhận, tiếp nhận là làm theo, đó gọi
là học Phật. Chỉ niệm kinh suông, chẳng thể
thực hiện những giáo huấn và nghĩa lý trong kinh
thì sẽ là mê tín, tôn giáo ấy có ích gì cho xã hội? Tháng
trước, vào đầu tháng Sáu, tôi đã theo phái đoàn
tôn giáo Mã Lai đến thăm Phạm Đế
Cương (Vatican), gặp gỡ Giáo Hoàng và các giám mục
thuộc Tòa Thánh, nghe họ báo cáo. Hồng Y Đào Nhiên (Jean-Louis Tauran) bảo tôi:
“Trong thời đại này, người tín ngưỡng
tôn giáo mỗi năm một ít hơn”. Họ đã thống
kê, người chẳng tin tưởng tôn giáo mỗi
năm một đông hơn, họ rất lo ngại. Trong
lúc trao đổi, tôi cũng có trình bày, báo cáo, tôi nói vì sao thuở giáo chủ lập giáo có
nhiều người tin tưởng dường ấy, có
nhiều tín chúng ngần ấy, học trò đều
có thể y giáo phụng hành? Do giáo dục tốt! Quý vị
xem nhé: [Tôn giáo] là giáo dục trọng yếu, giáo học chủ
yếu, giáo hóa đáng tôn sùng, ai chẳng hoan hỷ? Trải
qua các đời mãi cho đến hiện thời, trên cả
thế giới, đạo Thiên Chúa có hơn mười ức
tín đồ, nếu tính cả đạo Cơ Đốc,
họ là một nhà, gộp thành hơn hai mươi ức;
đây là tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Phỏng
đoán Y Tư Lan giáo (Islam) tối thiểu cũng có
hơn mười ba ức [tín đồ], Phật giáo ít
hơn một chút, khoảng chừng bảy sáu ức.
Đó là những tôn giáo lớn trên thế giới, số
người của ba tôn giáo gộp lại sẽ chiếm
đến hai phần ba số người trên cả thế
giới.
Hiện
thời, ta thấy có hiện tượng suy yếu, vì sao
bị suy yếu? Trước đây, tôn giáo là giáo học,
lên lớp. Đặc biệt là Phật giáo, Phật giáo
truyền tới Trung Quốc, tự viện, am đường
là trường học, chẳng phải là miếu thờ;
miếu là nơi cúng tế quỷ thần. Phật giáo gọi
là Tự, mọi người hãy hiểu nguồn gốc của
Tự là gì? Cơ quan làm việc của chính phủ, trực
tiếp cai quản bởi hoàng thượng được
gọi là Tự. Tự có địa vị cao nhất trong
các cơ quan làm việc của chánh phủ. Lại còn,
được vĩnh viễn thiết lập, chẳng thể
thay đổi. Nếu quý vị có dịp đến
thăm Cố Cung tại Bắc Kinh, sẽ thấy trong Cố
Cung có chín Tự, tức chín cơ sở làm việc, treo biển
đề bên ngoài [cho biết đó là] cơ cấu trông nom
việc gì. [Những cơ quan công quyền] thuộc về
Tể Tướng gọi là Bộ. Bộ có thể dẹp
đi, hay thay đổi, có thể tăng thêm, tức là lập
thêm, mà cũng có thể phế trừ; nhưng Tự thì
không thể, Tự được thiết lập vĩnh
cửu. Bởi lẽ, Phật giáo truyền đến
Trung Quốc được đế vương tôn trọng
như vậy, nên gọi cơ cấu ấy là Tự. Vì thế,
dưới hoàng đế có mười Tự, cũng viên
mãn. Trước kia là chín Tự, thêm vào Phật Tự, trở
thành mười Tự, viên mãn. Hoàng thượng dẫn
đầu, dân chúng tôn kính hoàng thượng, cho nên giáo dục
của Phật giáo phổ cập nhanh hơn Nho và Đạo,
khắp mọi nơi trên cả nước đều có, ảnh
hưởng rất lớn. Trong Tự luôn luôn là giáo học,
Thích Ca Mâu Ni Phật dạy suốt một đời. Vì thế,
những người xuất gia trong chùa chiền có đức
hạnh, có học vấn, thật sự dạy! Dạy
ai? Quá nửa là người đọc sách; bởi lẽ,
trước kia không có trường học, quốc gia chẳng
lập trường học, trường học rất
ít, những kẻ thích đọc sách đến đâu?
Đến chùa miếu. Quý vị thấy Trung Quốc trải
các đời, bao nhiêu Trạng Nguyên, Tể Tướng,
toàn là học hành trong chùa miếu. Mọi người đều
biết Phạm Trọng Yêm, ông ta là điển hình, học
ở đâu? Trong chùa miếu. Chùa miếu bồi dưỡng
nhân tài cho quốc gia, học khá rồi bèn đi thi, thi cử
để lấy học vị. Trước kia học vị
cấp huyện là Tú Tài, ở tỉnh là Cử Nhân, thi ở
trung ương gọi là Điện Thí (thi Đình), [thi
đậu sẽ có học vị] Tiến Sĩ, giống
như Tiến Sĩ, Thạc Sĩ và Học Sĩ hiện
thời. Thi lấy công danh, [thuở ấy] gọi là công
danh, công danh là học vị. Giành được học vị,
chánh phủ bổ nhiệm quý vị phục vụ đất
nước, giao phó chức vụ. Do vậy, [nhà chùa] là
trường học. [Các cơ cấu] của Nho, Thích,
Đạo đều là trường học.
Lần
này, tôi tham gia hoạt động của họ vì nghe những
tin tức ấy; lúc đó, tôi nói: “Tôn giáo nhất định
phải khôi phục giáo dục, thật sự có cống hiến
đối với xã hội, chẳng còn là mê tín. Làm chuyện
hình thức là không được rồi! Chỉ có những
nghi thức suông, không có giáo học, chắc chắn sẽ
đi vào con đường diệt vong. Người ta
không tin quý vị, cầu đảo có ích lợi hay không? Hữu
dụng, nhưng người ta nói quý vị chẳng hợp
khoa học, là phường mê tín. Nhất định phải
là dạy học. Thuở tại thế, Gia Tô dạy ba
năm, Ngài bị kẻ khác hại chết. Lúc còn sống,
Mục Hãn Mặc Đức dạy hai mươi bảy
năm. Thích Ca Mâu Ni dạy bốn mươi chín năm, có
vị nào chẳng dạy học? [Các Ngài] đều là những
vị thầy vô cùng tốt, thật sự có đức hạnh,
có học vấn, chúng ta nhất định phải biết
điều này. Đi theo con đường cũ của
Thích Ca Mâu Ni Phật là giáo dục Phật giáo, không có những
nghi thức siêu độ như trong nhà chùa hiện thời.
Thời đức Phật hoàn toàn không có, ngay cả khóa tụng
sáng tối cũng không có, quý vị tự mình tu hành như
thế nào là chuyện của quý vị. Thích Ca Mâu Ni Phật
mỗi ngày cùng đại chúng lên lớp, quý vị có nghi vấn
có thể nêu ra để thảo luận, trong kinh Phật
là một bên hỏi, một bên đáp. Vì thế, muốn
duy trì tôn giáo tồn tại, nhất định phải coi
trọng giáo học và giáo dục tôn giáo. Hiện thời,
do khoa học kỹ thuật phát triển, giao thông thuận
tiện, nhanh chóng, địa cầu đã biến thành
người một nhà, chẳng thể giống như
trong quá khứ, dẫu đến già chết chẳng qua lại
với nhau, thời đại ấy đã qua rồi! Vì thế,
hiện thời, cần phải nghĩ đến những
vị thánh hiền, đại thánh đại hiền
đã giáo hóa chúng sanh, nay chúng ta hiểu
rõ, phương hướng là một, mục tiêu là một,
nhưng phương pháp khác nhau. Do vậy, chúng ta tiếp
xúc kinh điển của mỗi tôn giáo, phải chọn lấy
những điểm tương đồng, chấp nhận
những điểm dị biệt, nhằm phong phú hóa sự
giáo học trong hiện tại của chúng ta, giúp chính
mình nâng cao cảnh giới nhằm giải quyết vấn
đề xã hội, đặc biệt là hóa giải xung
đột, xúc tiến xã hội an định, thế giới
hòa bình. Tôn giáo như vậy sẽ có cống hiến lớn
nhất đối với thế giới và nhân loại, ai
chẳng ủng hộ quý vị? Ai chẳng tán thán? [Điều
ấy] sẽ dẫn đến các sự nghiệp đều
có thể cùng tồn tại. Phật giáo theo hình thức tôn
giáo cũng có thể tồn tại, chẳng cần phải
biến đổi nó. Hiện thời, tại Trung Quốc
còn có Phật giáo kiểu du lịch ngoạn cảnh, Phật
giáo học thuật đã có từ rất lâu. Các đại
học thường dùng kinh điển Phật giáo để
giảng dạy, đó là Phật giáo theo kiểu học thuật.
Hiện tại, nghe nói còn có Phật giáo theo mô hình xí nghiệp,
[những hình thức ấy] đều được,
đều có thể cùng tồn tại, nhưng Phật
giáo theo kiểu giáo dục là cội rễ, đó là nguyên thủy
Phật giáo, trọng yếu hơn bất cứ hình thức
Phật giáo nào khác!
Người Trung Quốc coi trọng
giáo dục nhất: “Kiến quốc,
quân dân, giáo học vi tiên” (dựng nước, cai trị
nhân dân, giáo hóa làm đầu). Trước đây là gia tộc,
tức đại gia đình, trong gia đình trọng yếu
nhất là giáo dục, tức gia giáo! Tư thục là
trường học dành cho con em trong gia đình, [gia đình
theo kiểu] đại gia đình. Một gia đình giống
như trong Hồng Lâu Mộng đã viết là một gia
đình thông thường, nói chung là nhân số trong một
gia đình gồm khoảng ba trăm người, rất
bình thường. Nhân đinh hưng vượng thì sáu bảy
trăm người, rất suy cũng có một hai trăm
người, đại gia đình! Vì thế, chẳng có
giáo dục sẽ không được, nhất định
là coi trọng giáo dục, coi trọng quy củ. Đệ
Tử Quy là gia quy. Vì lẽ đó, người Trung Quốc
nói “tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Có thể tề gia, sẽ có thể trị
quốc. Quý vị cai quản gia đình tốt đẹp,
sẽ có thể chăm lo những chuyện quốc gia, mở
rộng ra là được rồi! Hiện thời, chúng
ta đáng thương, không có gia tộc. Sau chiến tranh
Trung - Nhật, chúng ta bị tổn thất lớn nhất
không phải là sanh mạng hay tài sản, mà là truyền thống
gia tộc của Trung Quốc bị xóa sạch, chẳng
còn. Trước Kháng Chiến thì có, sau Kháng Chiến chẳng
tìm thấy nữa. Đó là chuyện khiến chúng tôi
đau lòng nhất. Gia tộc của Trung Quốc khiến
cho xã hội ổn định bền vững mấy ngàn
năm qua; tìm khắp thế giới chẳng thấy [có
điều gì khác giống như] sự cống hiến của
gia tộc đối với đất nước. Nó phát
huy hiệu quả thật to, gia tộc quá tốt đẹp.
Bởi lẽ, người yêu mến gia đình, yêu mến
quê hương, tự nhiên sẽ ái quốc. Gia tộc không
có, quý vị nói đến chuyện hiếu thảo cha mẹ,
tôn kính thầy, nói đến chuyện yêu thương
người khác sẽ rất khó khăn.
Sáng hôm nay, tôi thức dậy,
tôi chẳng đọc báo, mấy chục năm qua, tôi chẳng
xem báo, nhưng chúng tôi hiện thời ở chung cư, mở
cửa ra, cách vách là một nhà khác, sáng ra là báo được
đặt ở cửa nhà họ. Tôi đi qua, liếc qua
tờ báo đặt ở cửa, tin thứ nhất là gì?
Một đứa trẻ mười lăm tuổi giết
mẹ và em gái, còn ra thể thống chi nữa! Mỗi ngày
đều thấy chuyện như vậy, trước kia
chẳng thể nào như vậy được! Xưa
kia, thầy Lý giảng kinh có kể cho chúng tôi nghe một
chuyện, dường như là vào đời Thanh, có một
huyện thành, nẩy ra một đứa con bất hiếu
giết cha. Triều đình biết chuyện,
đây là chuyện lớn, phải tâu lên triều đình.
Huyện trưởng bị cách chức, tri huyện bị
cách chức, tri phủ bị ghi [trong hồ sơ là] hai lần
phạm lỗi lớn, tuần phủ (là tỉnh trưởng)
bị ghi một lần. Ngoài ra còn như thế nào? Trước
kia là [mỗi thành thị] có tường thành, tường
thành bị phá một góc, triệt một góc thành, xấu hổ,
nhục nhã quá! Cớ sao thành ấy lại nẩy nòi
một kẻ tồi bại dường ấy! Hiện thời
quý vị đọc báo, giết mẹ vẫn chẳng sao!
Xưa nay nghe nói có chuyện giết cha, chưa nghe nói giết
mẹ! Xã hội hiện thời đến nông nỗi này,
do nguyên nhân nào? Con người không hiểu luân lý, không biết
đạo đức, không biết nhân quả, cả thế
giới hiện thời thiếu sót những điều
này. Khéo sao tôn giáo đảm nhận ba loại giáo dục ấy,
trong kinh điển của bất luận tôn giáo nào
cũng đều nhấn mạnh giáo dục luân lý, giáo dục
đạo đức, giáo dục nhân quả. Trong tôn giáo
cao cấp, có giáo dục triết học và giáo dục khoa học.
Tôn giáo có thể gánh vác sự nghiệp hoằng dương
rực rỡ giáo học, chính mình nghiêm túc học tập, cảm
hóa chúng sanh, tôn giáo thật sự có cống hiến đối
với xã hội. Xưa kia, những vị giáo chủ sáng
lập tôn giáo đã dụng tâm như thế, chúng ta chớ
nên không biết!
Đây là
nói tôn giả Kiều Trần Như khéo khuyên răn, giáo
hóa. Khéo khuyên răn, giáo hóa thì quan trọng nhất là lấy
thân làm gương. Chính mình không làm
được, bảo người khác làm, người ta
chẳng tin tưởng, tự mình phải làm trước.
“Tương dưỡng thánh
chúng”, “tương” (將) có nghĩa là dẫn đầu,
quý vị thấy Ngài nêu gương, dẫn đầu,
xướng suất các đồng học, quả thật
là đã thực hiện “học
vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học làm thầy người, hành vi làm khuôn mẫu
cho cõi đời). Đoàn thể
của Thích Ca Mâu Ni Phật không có tổ chức, quý vị
thấy những học trò ưu tú đều là những tấm
gương tốt cho các học trò bình phàm, chẳng
đánh mất oai nghi. Đấy chính là “oai nghi hữu tắc” trong Tứ Đức
như trong Hoàn Nguyên Quán đã nói.
“Kim kinh thủ liệt tôn danh”
(nay kinh này kể tên tôn giả đầu tiên), quý vị thấy
trong bộ kinh này, nêu tên vị thượng thủ thứ
nhất là Ngài. “Chánh biểu
năng văn thọ thử kinh pháp giả, giai thị
đệ nhất đệ tử” (nhằm biểu thị
những người có thể nghe nhận kinh pháp này đều
là đệ tử thứ nhất của đức Phật).
Trong đây có hai tầng ý nghĩa:
1) Thứ nhất là quý
vị có thể nghe. Nghe bộ kinh này là ai? Là đệ tử
bậc nhất của Thích Ca Như Lai.
2) [Thứ hai là] quý vị
có thể tiếp nhận, y giáo phụng hành, sẽ có thân
phận giống như ngài Kiều Trần Như, là nhân vật
giống hệt như ngài Kiều Trần Như.
“Bổn kinh Phi Thị Tiểu Thừa phẩm viết” (phẩm Chẳng Phải Là Tiểu Thừa
trong kinh này có đoạn), kinh văn có một đoạn
như thế này: “Đắc
văn A Di Đà Phật danh hiệu, năng sanh nhất niệm
hỷ ái chi tâm, quy y chiêm lễ, như thuyết tu hành.
Đương tri thử nhân, phi thị Tiểu Thừa.
Ư ngã pháp trung, đắc
danh đệ nhất đệ tử” (Được nghe danh hiệu A Di Đà Phật,
có thể sanh một tâm vui thích, quy y, chiêm lễ, tu
hành đúng như lời dạy. Hãy nên biết người
ấy chẳng phải là Tiểu Thừa. Ở trong pháp
ta, được gọi là đệ tử bậc nhất).
Đây là lấy kinh này để làm chứng, nhằm chứng
tỏ những ý nghĩa bao hàm trong việc ngài Kiều Trần
Như được nêu danh đầu tiên trong các vị
thượng thủ, đây cũng chẳng phải là xếp
đặt tùy tiện. Câu kinh văn này quan trọng, quý vị
thấy đó: Được nghe danh hiệu A Di Đà Phật,
danh hiệu A Di Đà Phật chẳng dễ gì được
nghe, nghe xong, nếu có thể hiểu ý nghĩa, thì mới
có thể tu hành. Nghe danh hiệu này, chẳng hiểu ý
nghĩa, cũng gieo trồng thiện căn, cũng gieo chủng
tử trong A Lại Da, nhưng trong đời này, [chủng
tử ấy] chẳng dễ gì hiện hành, cũng chẳng
dễ gì khởi tác dụng!
Do vậy, chúng ta học
Phật phải biết: Nghe kinh quan trọng hơn bất
cứ điều gì khác! Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật
giảng suốt bốn mươi chín năm, những vị
thường tùy đệ tử nghe chẳng thiếu buổi
nào, một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị ấy,
chẳng thiếu một buổi giảng nào! Đây là kinh
nghiệm của bản thân chúng tôi trong một đời
này, nhân duyên khiến tôi xuất gia là do tiếp nhận lời
khuyến cáo của Chương Gia đại sư, lão
nhân gia khuyên tôi xuất gia. Lại còn khuyên tôi học theo
Thích Ca Mâu Ni Phật, tôi nghe lời, thật sự đi
theo con đường của Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt
đời học tập, dạy học. Tôi học tập
bảy năm, bắt đầu dạy học. Học tập
bảy năm rồi xuất gia. Vừa xuất gia bèn dạy
trong Phật học viện, cũng nhận lời mời
giảng kinh bên ngoài, bắt đầu dạy học,
[đến nay là] năm mươi hai năm! Trong xã hội
như vậy, tôi đến rất nhiều nơi trên các
quốc gia, chẳng bị lui sụt, không trở thành tệ
hại, nhờ vào đâu? Nhờ vào kinh điển, mỗi
ngày chẳng rời khỏi kinh điển. Chẳng rời
khỏi kinh điển là chẳng rời khỏi Thích Ca
Mâu Ni Phật, mỗi ngày ở cùng một chỗ với Phật,
tận hết sức đoạn tuyệt ngoại duyên.
Ngoại duyên có sức dụ dỗ, mê hoặc
con người lớn nhất. TV, thời chúng tôi chưa
có Internet, hiện thời có Internet, radio, TV, nhật báo, tạp
chí. Tôi một mực cự tuyệt những phương
tiện truyền thông ấy, vài chục năm chẳng tiếp
xúc những thứ ấy. Người ta hỏi tôi, tôi cảm
thấy thế giới này khá lắm, mỗi ngày đều
thái bình, đều chẳng có chuyện gì phát sanh, chẳng
nghe, chẳng hỏi tới, mỗi ngày tiếp xúc Thích Ca
Mâu Ni Phật, mỗi ngày tiếp xúc chư đại Bồ
Tát. Vì thế, tâm yêu thích sự giáo dục của đức
Phật ngày một tăng trưởng, pháp hỷ sung mãn,
đúng là thường sanh tâm hoan hỷ, thấu hiểu lời
cổ nhân đã nói: “Thế
vị chẳng nồng đậm bằng pháp vị” [nghĩa là] ý vị trong nhân
gian thiên thượng lục đạo chẳng thể
sánh bằng pháp vị. Nếu quý vị thật sự nếm
được, sẽ nẩy sanh tâm hoan hỷ. Quy y, chiêm lễ,
tu hành đúng như lời dạy, nhất định tuân
theo giáo huấn của đức Phật, những khuyết
điểm, tập khí, hành vi bất thiện thảy đều
uốn nắn, sửa sai. Đấy là nói về Tịnh
Tông. Hãy nên biết người ấy chẳng phải là Tiểu
Thừa, ở trong pháp ta được gọi là đệ
tử bậc nhất. Tức là trong pháp Tịnh Độ,
chứ chẳng phải pháp môn nào khác. Hôm nay đã hết
thời gian rồi, chúng ta học tới đây. Hãy ghi nhớ
ý nghĩa biểu thị pháp của ngài Kiều Trần
Như.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 44 hết
[1] Xuất tướng nhập tướng
(出將入相): Ra ngoài là một vị tướng cầm
quân, về triều là người đứng đầu
trăm quan. Chữ Tướng (將) thứ nhất là tướng quân, chữ
Tướng (相) thứ hai là Thừa Tướng hoặc
Tể Tướng. Về sau, đến đời nhà
Thanh, các vị quan được phong làm Đại Học
Sĩ, hoặc tuyển vào Bí Thư Các cũng gọi “bái
tướng” vì được trực tiếp bàn định
triều chánh, xử lý chánh sự hằng ngày nên rất có
thế lực.
[2] Đường Minh Hoàng (695-762) chính là
Đường Huyền Tông, tên thật là Lý Long Cơ, con
trai thứ ba của Đường Duệ Tông (Lý Đán).
Sử thường gọi là Minh Hoàng vì sau khi nhà vua mất,
các văn quan xu phụ đã dâng một thụy hiệu dài
dằng dặc là Chí Đạo Đại Thánh Đại
Minh Hiếu Hoàng Đế. Lý Long Cơ anh tuấn, oai vệ,
lắm tài nghệ, thuở trẻ là một vị vua rất
tận tụy. Trước đó, khi Lý Trị (Đường
Cao Tông, chồng Võ Tắc Thiên) chết, Võ Tắc Thiên
đã đưa con trai là Lý Hiển lên ngôi làm vua bù nhìn, tức
Đường Trung Tông, rồi lấy cớ phế vị
vua này chỉ trong một tháng, đưa em trai của Lý Hiển
là Lý Đán lên ngôi, tức Đường Duệ Tông.
Đường Duệ Tông làm vua được sáu năm
thì bị Võ Tắc Thiên ép phải nhường ngôi cho bà ta
lên làm vua nhà Đại Châu Lý Đán bị giáng xuống làm
Thái Tử và đổi tên thành Võ Luân. Trong giai đoạn ấy,
Lý Long Cơ đã ngấm ngầm tuyển mộ dũng
sĩ chờ thời. Khi Võ Tắc Thiên bị ép thoái vị,
quần thần lại tôn Lý Hiển làm vua lần nữa. Vi
hoàng hậu muốn trở thành Võ Tắc Thiên thứ hai,
nên ngấm ngầm hạ độc Lý Hiển, lập Lý
Trọng Mậu lên thay, tức Đường
Thương Đế. Lý Long Cơ liền liên kết với
Thái Bình công chúa (con gái Võ Tắc Thiên) đập tan âm mưu
này, hạ ngục Vi Hậu, giáng Lý Trọng Mậu xuống
làm Ôn Vương, đón cha là Lý Đán về làm vua như
cũ. Nhà Đường đạt đến thời thịnh
trị Khai Nguyên khi Lý Long Cơ làm vua. Vua chỉnh lý hệ
thống hành chánh, trừ diệt tham quan, trọng dụng
hiền tài, trừng trị quý tộc chiếm đoạt
đất của dân lành. Về già, ông sủng ái
Dương Quý Phi, bỏ mặc cho anh trai Dương Quý
Phi là Dương Quốc Trung lũng đoạn triều
chính dẫn đến chuyện An Sử (An Lộc Sơn
và Sử Tư Minh) làm loạn, đến nỗi vua tôi phải
chạy vào đất Thục (Tứ Xuyên). Mãi cho đến
khi thái tử Lý Hanh được quần thân tôn lên ngôi hoàng
đế ở Linh Châu, tức Đường Túc Tông, tập
trung quân lực đập tan An Lộc Sơn mới
đón Đường Minh Hoàng về lại Trường
An, tôn Đường Minh Hoàng làm Thái Thượng Hoàng.
[3] Trung Liệt Từ là nơi thờ các vị
anh hùng trung lương liệt sĩ, còn được gọi
bằng các danh xưng như Trung Hồn Từ, Anh Liệt
Từ, Anh Hồn Từ, Anh Linh Từ, Trung Liệt Miếu,
Chiêu Trung Từ, Hiển Trung Từ. Một nơi nổi
tiếng nhất chính là Pháp Nguyên Tự ở Bắc Kinh.
Ngôi chùa này do Đường Thái Tông hạ chiếu xây dựng
với danh xưng Mẫn Trung Tự nhằm kỷ niệm,
truy điệu tướng sĩ trận vong trong cuộc
đông chinh Cao Ly, đến đời Thanh chùa được
đổi tên thành Pháp Nguyên Tự.
[4] Hàm Phong (1831-1861) là vua thứ chín của
nhà Thanh, tên thật là Ái Tân Giác La Dịch Trữ (Aisin-Gioro
Iju), con thứ tư của Đạo Quang, lên ngôi năm
mười chín tuổi. Triều đại của nhà vua bị
lung lay bởi cuộc biến loạn Thái Bình Thiên Quốc
do Hồng Tú Toàn khởi xướng, đồng thời
miền Bắc Trung Hoa nổ ra cuộc biến loạn của
Niệm Quân (một phong trào nông dân dấy loạn do
Trương Lạc Hành lãnh đạo). Khi vừa dẹp
yên hai cuộc biến loạn này, chiến tranh Nha Phiến
nổ ra, liên quân Anh Pháp tấn công Thiên Tân, triều đình
nhà Thanh phải bỏ chạy về hành cung ở Nhiệt
Hà để lánh nạn. Vua chết tại hành cung Nhiệt
Hà lúc 31 tuổi. Nói chung, nhà vua nhu nhược, thiếu quyết
đoán và ham mê tửu sắc.
[5] Thùy liêm thính chánh (buông rèm nghe việc triều
chánh): Khi vua còn quá nhỏ, thường mời Thái Hậu
giúp việc cai trị. Do trong cổ lễ, phụ nữ
không tiện lộ mặt trước nam giới nếu
người ấy không phải là chồng, cha, anh, hay em
trai ruột, nên triều thần thường kê ghế sau
ngai vàng, căng rèm cho Thái Hậu ngồi. Trên thực tế,
vua còn quá nhỏ nên Thái Hậu toàn quyền cai trị. Khi
vua Hàm Phong chết, con là Đồng Trị
(Ái Tân Giác La Tải Thuần, Dzai Šun)
mới năm tuổi. Trước đó, Hàm Phong đã chỉ
định tám vị đại thần làm Cố Mạng
Phụ Chánh Đại Thần. Khi Hàm Phong chết, Tải
Thuần được triều thần tôn lên ngôi vua, lấy
niên hiệu là Kỳ Tường, nhưng Từ An Thái Hậu
(Nữu Hỗ Lộc Thị), Từ Hy Thái Hậu (Diệp
Hách Na La Thị) và Cung Thân Vương (Dịch Hân) đã
đảo chánh (sử gọi sự kiện này là Tân Dậu
Chánh Biến), hạ bệ tám vị đại thần,
đoạt quyền phụ chánh, đổi niên hiệu từ
Kỳ Tường sang Đồng Trị. Theo các sử gia
Trung Hoa, Đồng Trị có nghĩa là “đồng quy ư
trị”, hoặc “mẫu tử đồng trị thiên hạ”.
Tuy mang tiếng là vua, Đồng Trị chỉ là bù nhìn
trong tay Từ Hy, đến năm mười tám tuổi
bèn chết. Tuy Từ An cũng mang tiếng cùng thùy liêm thính
chánh với Từ Hy, nhưng hầu như trên thực tế
chẳng có quyền lực gì.
[6] Người Mãn Châu và Tây Tạng tin
Chương Gia đại sư là hóa thân của A La Hán Tôn
Đạt, chuyển thế đến đời thứ
năm bèn giáng sanh ở tỉnh Thanh Hải (Trung Hoa), từ
đời thứ mười ba trở đi bèn có hiệu
là Chương Gia Hoạt Phật (theo tên gọi của
vùng ấy). Vì thế, Chương Gia đại sư (thầy
của lão pháp sư Tịnh Không) được coi là đời
thứ mười chín, tuy Ngài chỉ là vị Chương
Gia đời thứ bảy. Chương Gia đời thứ
năm và thứ sáu đều là quốc sư dưới thời
Từ Hy.
[7] Để hình dung chữ Thị và chữ
Thân viết theo lối triện như thế nào, xin quý vị
xem hình ảnh trong các link sau:
- Chữ Thị (http://commons.wikimedia.org/wiki/File:%E7%A4%BA-bigseal.svg)
- Chữ Thân (http://en.wiktionary.org/wiki/File:%E7%94%B3-seal.svg)
[8] Thuyết Văn Giải Tự là một
trong các bộ tự điển chữ Hán đầu tiên của
Trung Quốc, do Hứa Thận biên soạn vào thời Hán
Hòa Đế. Ông đã có những lập luận khá độc
đáo về cách phân chia bộ thủ, phân loại cách hình
thành chữ Hán, lập ra khái niệm Lục Thư (sáu cách
cấu tạo chữ Hán). Nội dung nhằm giải thích
9.353 chữ thông dụng thời ấy và 1.163 chữ
được xếp vào loại Dị Thể Tự. Cho
đến hiện thời, tác phẩm này vẫn được
coi là sách gối đầu giường cho các nhà nghiên cứu
Hán tự.
[9] Tức là bộ Kim Sơn Hoạt Phật
Thần Dị Lục.
[10] Đúng ra phải đọc là Tông Giáo,
nhưng chúng ta quen đọc chữ này thành “tôn giáo”.